1.2 Tương Ưng năm uẩn, Kinh 61-112

1. TƯƠNG ƯNG NĂM UẨN, KINH 61-112

KINH 61. THẬT GIÁC [1]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Nay Ta sẽ nói về biên tế của hữu thân [2], về biên tế tập khởi của hữu thân, về biên tế diệt tận của hữu thân [3]. Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ! Ta sẽ nói cho các ngươi nghe.

“Thế nào là biên tế của hữu thân? Năm thủ uẩn; đó là: sắc thủ uẩn; thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn. Đó gọi là biên tế của hữu thân.

“Thế nào là biên tế tập khởi của hữu thân? Đó là ái, ái hữu đương lai đi đôi với tham hỷ, đắm trước cái này hay cái kia [4]. Đó gọi là tập khởi của hữu thân.

“Thế nào là biên tế diệt tận của hữu thân? Tức là ái này, ái hữu đương lai đi đôi với tham hỷ, đắm trước cái này hay cái kia, tất cả đều được đoạn trừ, diệt tận khổ, ly dục, tịch diệt, tĩnh chỉ. Đó là biên tế sự diệt tận của hữu thân. Đó là nói về biên tế hữu thân, về biên tế sự tập khởi của hữu thân, về biên tế sự đoạn diệt của hữu thân.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những lời Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

Như kinh Đương thuyết, 2 kinh Hữu và Đương tri cũng vậy.

KINH 62. HỮU THÂN [5]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Nay Ta nói về hữu thân [6], [18c] về sự tập khởi của hữu thân, về con đường dẫn đến sự diệt tận của hữu thân [7]. Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ! Ta sẽ vì các ngươi mà nói.

“Thế nào là hữu thân? Năm thủ uẩn; đó là: sắc thủ uẩn, thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn. Đó gọi là hữu thân.

“Thế nào là sự tập khởi của hữu thân? Đó là ái, ái về hữu đương lai đi đôi với tham hỷ, đắm trước cái này hay cái kia. Đó gọi là sự tập khởi của hữu thân.

“Thế nào là sự diệt tận của hữu thân? Tức là ái này, ái về hữu đương lai đi đôi với tham hỷ, đắm trước cái này hay cái kia, tất cả đều được đoạn trừ, diệt tận khổ, ly dục, tịch diệt, tĩnh chỉ. Đó gọi là sự diệt tận của hữu thân.

“Thế nào là con đường đưa đến sự diệt tận của hữu thân? Là chỉ cho Bát thánh đạo: Chánh kiến, chánh chí, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định. Đó gọi là con đường đưa đến sự diệt tận của hữu thân.

“Đó là nói về hữu thân, về sự tập khởi của hữu thân, về sự diệt tận của hữu thân, về con đường đưa đến sự diệt tận của hữu thân.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những lời Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

Như kinh Đương thuyết, 2 kinh Hữu và Đương tri cũng vậy.

Nhưng có sự sai biệt: “Tỳ-kheo biết hữu thân, đoạn tập khởi của hữu thân, chứng diệt của hữu thân, tu tập con đường đưa đến sự diệt tận của hữu thân. Đó là Tỳ-kheo đoạn trừ các kết sử, triền phược của ái dục, tu hiện quán, cứu cánh khổ biên.”

Lại có sự sai biệt: “Đó gọi là Tỳ-kheo đã cứu cánh khổ biên, cứu cánh ly cấu, cứu cánh phạm hạnh, là bậc thượng sĩ thuần tịnh.”

Lại có sự sai khác: “Đó gọi là Tỳ-kheo A-la-hán, sạch hết các lậu hoặc, những gì cần làm đã làm xong, đã trút bỏ gánh nặng, đã đạt được mục đích của mình, dứt sạch các kết sử, chánh trí tâm giải thoát.”

Lại có sự sai biệt: “Đó gọi là Tỳ-kheo đã phá sập quan ải, vượt hào, siêu việt cảnh giới, đã thoát tuần canh [8], dựng cờ Thánh pháp.” [9]

Lại có sự sai biệt: “Thế nào là đã phá sập quan ải? Là đã dứt bỏ được năm hạ phần kết. [10] Thế nào là vượt hào? Là vượt khỏi hào sâu vô minh. [11] Thế nào là siêu việt khỏi cảnh giới? Là đến chỗ cùng tột không đầu mối của sanh tử. [12] Thế nào là đã thóat tuần canh? Là ái đã hết sạch. [13] Thế nào dựng cờ Thánh pháp? Là ngã mạn đã dứt sạch.” [14]

Lại có sự sai biệt: “Đó gọi là Tỳ-kheo đoạn năm chi, thành tựu sáu chi, thủ hộ một, y bốn thứ, xả các đế, lìa các thứ mong cầu, tịnh các giác, thân hành tịch tĩnh, tâm khéo [19a] giải thoát, tuệ khéo giải thoát, vô thượng sỹ, phạm hạnh thuần nhất đã lập.” [15]

Kệ tóm tắt

Kỳ đạo, có ba kinh,

Thật giác cũng ba kinh,

Hữu thân kinh thuyết,

La-hán có sáu hạng.

KINH 63. TRI PHÁP [16]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Ta sẽ nói về các pháp sở tri, trí và trí giả. [17] Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ! Ta sẽ vì ngươi mà nói.

“Thế nào là các pháp sở tri? Năm thủ uẩn, đó là: Sắc thủ uẩn; thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn. Đó gọi là những pháp sở tri.

“Thế nào là trí? [18] Sự điều phục dục tham, đoạn trừ dục tham, siêu việt dục tham. Đó gọi là trí.

“Thế nào gọi là trí giả? Đó là A-la-hán. A-la-hán chẳng phải tồn tại sau khi chết, chẳng phải không, chẳng phải có không tồn tại sau khi chết, chẳng phải chẳng có không tồn tại sau khi chết. Nói rộng ra vô lượng, các số đã [19] vĩnh viễn dứt sạch. Đó gọi là nói về các pháp sở tri, trí và trí giả.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những lời Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 64. TRỌNG ĐẢM [20]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Nay Ta sẽ nói về gánh nặng, thủ gánh nặng, xả gánh nặng, và người đang gánh nặng [21]. Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ! Ta sẽ vì ngươi mà nói.

“Thế nào là gánh nặng? Năm thủ uẩn, đó là: Sắc thủ uẩn; thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn.

“Thế nào là thủ gánh nặng? Đó là ái, ái hữu đương lai đi đôi với tham hỷ, đắm trước cái này hay cái kia.

“Thế nào là xả gánh nặng? Tức là ái này, ái hữu đương lai đi đôi với tham hỷ, đắm trước cái này hay cái kia, tất cả đều được đoạn trừ, diệt tận khồ khổ, ly dục, tịch diệt, tĩnh chỉ.

“Thế nào là người đang gánh nặng? Chính là con người [22]. Con người này có tên như vậy, thọ sanh như vậy, dòng họ như vậy, ăn uống như vậy, cảm thọ khổ lạc như vậy, tồn tại như vậy, thọ mạng như vậy, giới hạn thọ mạng sống như vậy. Đó gọi là gánh nặng, thủ gánh nặng, xả gánh nặng, và người đang gánh nặng.”

Bấy giờ, đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Đã vứt bỏ gánh nặng,

Không nên nhận trở lại.

Gánh nặng là khổ lớn,

Trút gánh là lạc nhiều.

Đoạn trừ tất cả ái,

Thì sạch tất cả hành.

Thấu triệt mọi cảnh khác,

Không còn luân chuyển hữu.

 [19b] Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những lời Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 65. VÃNG NGHÊ [23]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Có năm thủ uẩn đó là: sắc thủ uẩn; thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn. Phàm phu ngu si không học, không biết như thật về sắc, về sự tập khởi của sắc, về sự diệt tận của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về sự xuất ly sắc. Vì không biết như thật, nên đối với sắc có sự thích thú, ngợi khen, đắm trước, bị dính mắc mà trụ; bị trói buộc bởi dây trói của sắc, bị trói buộc bởi dây trói bên trong, không biết nguồn gốc, không biết biên tế, không biết xuất ly.

“Đó gọi là kẻ phàm phu ngu si không học, vì bị trói buộc nên sanh, vì bị trói buộc nên chết, vì bị trói buộc từ đời này sang đời khác, nên người này sanh ra cũng vì sự trói buộc mà chết đi cũng vì sự trói buộc.

“Đó gọi là kẻ phàm phu ngu si không học, bị Ma khống chế, vào trong lưới ma, bị Ma biến hóa [24], bị ma trói buộc, bị ma lôi kéo. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.

“Đa văn Thánh đệ tử biết như thật về sắc, về sự tập khởi của sắc, về sự diệt tận của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về sự xuất sắc. Vì đã biết như thật, nên không tham lạc sắc, không ngợi khen, không bị dính mắc mà trụ; không bị trói buộc bởi dây trói của sắc, không bị trói buộc bởi dây trói bên trong, biết nguồn gốc, biết biên tế, không biết xuất ly.

“Đó gọi là đa văn Thánh đệ tử, không bị lệ thuộc vào sự trói buộc mà sanh, không bị lệ thuộc vào sự trói buộc mà chết, từ đời này sang đời khác cũng không bị lệ thuộc vào sự trói buộc từ đời này sang đời khác; không bị Ma khống chế, không bị rơi vào tay Ma, không bị Ma tạo tác [25], không bị Ma trói buộc, giải thoát sự trói buộc của Ma, lìa khỏi sự dẫn dắt của Ma. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những lời đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 66. QUÁN [26]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Có năm thủ uẩn. Đó là, sắc thủ uẩn. Này Tỳ-kheo, đối với sắc nhàm tởm, ly dục, tịch diệt, không làm sanh khởi, giải thoát. Đó gọi là Như Lai, Ứng cúng, [27] Đẳng Chánh Giác. Cững vậy, thọ, tưởng, hành, thức; nhàm tởm, ly dục, tịch diệt, không làm sanh khởi, giải thoát. Đó gọi là Như Lai, Ứng cúng, Đẳng Chánh Giác.

“Lại nữa, Tỳ-kheo, đối với sắc nhàm tởm, ly dục, tịch diệt, không làm sanh khởi, giải thoát. Đó gọi là A-la-hán tuệ giải thoát. Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức; nhàm tởm, ly dục, tịch diệt, không làm sanh khởi, giải thoát. Đó gọi là A-la-hán tuệ giải thoát. [28]

“Này Tỳ-kheo, Như Lai, Ứng cúng, Đẳng Chánh Giác và A-la-hán tuệ giải thoát có sự sai biệt nào?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Như Lai là gốc của pháp, là con mắt của pháp, [19c] là nơi nương tựa của pháp. Cúi xin đức Thế Tôn vì các Tỳ-kheo mà nói rộng nghĩa này, các Tỳ-kheo sau khi nghe xong sẽ thực hành theo.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ! Ta sẽ vì các ngươi mà nói.

“Như Lai, Ứng cúng, Đẳng Chánh Giác chưa từng nghe pháp nhưng có thể tự mình giác ngộ pháp, tự thông đạt Vô thượng Bồ đề, rồi để giác ngộ cho hàng Thinh văn trong đời vị lai mà thuyết pháp. Đó là, bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác, tám chi Thánh đạo. Này các Tỳ-kheo, đó gọi là Như Lai, Ứng cúng, Đẳng Chánh Giác đạt được những gì chưa đạt, được những cái lợi chưa từng được lợi, biết đạo, phân biệt đạo, nói đạo, thông suốt đạo; lại có thể thành tựu cho các Thinh văn, truyền dạy, răn bảo; như vậy mà thuận theo thiện pháp, hoan hỷ thiện pháp. Đó gọi là sự sai biệt giữa Như Lai và A-la-hán.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những lời đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 67. DỤC [29]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Có năm thủ uẩn. Đó là, sắc thủ uẩn; thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn.

“Này các Tỳ-kheo, hãy quán sát sắc. Sau khi quán sát sắc, thấy có ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thưa Không, Thế Tôn.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Lành thay! Lành thay! Sắc là vô ngã. Cái gì vô ngã thì vô thường, vô thường thì khổ. Nếu khổ thì kia tất cả đều chẳng phải ngã, không phải khác ngã, không ở trong nhau. Hãy quán sát như vậy.

“Thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.

“Đa văn Thánh đệ tử đối với năm thủ uẩn này quán sát là chẳng phải ngã, chẳng phải ngã sở. Khi đã quán sát như vậy rồi, đối với thế gian không có gì để chấp thủ. Khi đã không có gì để chấp giữ thì sẽ không có gì để đắm trước. Khi đã không có gì để đắm trước thì sẽ tự giác ngộ Niết-bàn: tự biết ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những lời đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 68. SANH (1) [30]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Hãy đoạn trừ dục tham nơi sắc. [31] Dục tham đã đoạn trừ rồi thì sắc đoạn. Khi sắc đoạn rồi, thì được biến tri đoạn [32]. Khi được biến tri đoạn, thì gốc rễ bị đoạn. Như chặt ngọn cây ta-la, sau này không còn tái sanh được nữa. Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức, dục tham đoạn… cho đến, đời sau [20a] không tái sanh được nữa.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những lời đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 69. SANH (2) [33]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: 

“Nếu sắc khởi, trụ, xuất thì khổ ở đây khởi, bệnh ở đây trụ, già, chết ở đây xuất. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.

“Tỳ-kheo, nếu sắc diệt, ngừng nghỉ, biến mất thì khổ ở đây diệt, bệnh ở đây dừng, già chết ở đây biến mất. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 70. SANH (3) [34]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Sắc quá khứ, vị lai còn là vô thường, huống nữa là sắc hiện tại. Đa văn Thánh đệ tử quán sát như vậy rồi, không nuối tiếc sắc quá khứ, không cầu mong sắc vị lai, và đối với sắc hiện tại nhàm chán, ly dục, diệt tận. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.

“Tỳ-kheo, nếu không có sắc quá khứ, đa văn Thánh đệ tử không có việc không nuối tiếc sắc quá khứ; vì có sắc quá khứ cho nên đa văn Thánh đệ tử không nuối tiếc sắc quá khứ. Nếu không có sắc vị lai, đa văn Thánh đệ tử không có việc không cầu mong sắc vị lai rồi; vì có sắc vị lai cho nên đa văn Thánh đệ tử không cầu mong sắc vị lai. Nếu không có sắc hiện tại, đa văn Thánh đệ tử không có việc đối với sắc hiện tại mà nhàm chán, hướng đến lìa dục, diệt tận; vì có sắc hiện tại cho nên đa văn Thánh đệ tử đối với sắc hiện tại mà nhàm chán, hướng đến lìa dục, diệt tận. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 71. PHÁP ẤN [35]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Ta sẽ nói về Thánh pháp ấn và kiến thanh tịnh. Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ.

“Nếu Tỳ-kheo nói như vầy, ‘Tôi đối với tam muội Không [36] chưa có sở đắc, mà khởi Vô tướng, Vô sở hữu, lìa được tri kiến kiêu mạn.’ Chớ nên nói như vậy. Vì sao? Vì nếu chưa [20b] đạt được Không, mà nói là ‘Tôi đã đạt được Vô tướng, Vô sở hữu, lìa được tri kiến kiêu mạn’, thì việc này không xảy ra.

“Nếu Tỳ-kheo nói như vầy, ‘Tôi đã đạt được Không, có thể khởi lên Vô tướng, Vô sở hữu, lìa được tri kiến kiêu mạn.’ Thì đây là lời nói chính xác. Vì sao? Nếu đã đạt được Không rồi, thì sẽ có thể khởi lên Vô tướng, Vô sở hữu, lìa được tri kiến kiêu mạn; điều này chắc chắn có thể xảy ra.

“Thế nào là đối với kiến thanh tịnh của Thánh Đệ tử?”

 Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Phật là gốc pháp, là con mắt pháp, là nơi nương tựa của pháp. Cúi xin hãy vì chúng con mà nói. Các Tỳ-kheo sau khi nghe pháp xong, sẽ thực hành theo lời dạy.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Tỳ-kheo ngồi dưới gốc cây, chỗ trống vắng, khéo quán sát sắc là vô thường, là pháp họai diệt, ly dục. Cũng vậy, quán sát thọ, tưởng, hành, thức là vô thường, là pháp hoại diệt, ly dục. Quán các thủ uẩn kia là vô thường, là pháp hoại diệt, không bền chắc, biến dịch, tâm sẽ được an lạc, thanh tịnh, giải thoát. Đó gọi là Không. Quán sát như vậy cũng không thể lìa kiêu mạn, có tri kiến thanh tịnh.

“Lại có tam-muội chánh tư duy, là quán sát sự đoạn tận của tướng sắc, sự đoạn tận của tướng thanh, hương, vị, xúc, pháp. Đó gọi là vô tướng. Quán sát như vậy cũng chưa lìa kiêu mạn, có tri kiến thanh tịnh.

“Lại có tam-muội chánh tư duy, là quán sát sự đoạn trừ tướng tham, tướng sân nhuế, tướng ngu si. Đó gọi là Vô sở hữu. Quán sát như vậy cũng chưa lìa kiêu mạn, có tri kiến thanh tịnh.

“Lại có tam-muội chánh tư duy, là quán sát ngã và ngã sở từ đâu sanh ra?

“Lại có tam-muội chánh tư duy, là quán sát về ngã, ngã sở từ thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm, biết mà sanh ra.

“Lại quán sát, do nhân gì, duyên gì mà thức có nhận thức thức; nhân , duyên của thức kia là thường hay vô thường?

“Lại tư duy do nhân gì, duyên gì mà thức nhận thức thức; nhân kia, duyên kia của thức đều là vô thường. Lại nữa, nhân kia, duyên kia tất cả đều là vô thường, thức được sanh bởi đó làm sao là thường được? Vô thường là hành của hữu vi, từ duyên khởi, là pháp tai hại, là pháp hoại diệt, là pháp ly dục, là pháp đoạn tri. Đó gọi là Thánh pháp ấn, tri kiến thanh tịnh.

“Đó là nói rằng, ‘Tỳ-kheo Ta sẽ nói về Thánh pháp ấn và kiến thanh tịnh.’ Được nói rộng như vậy.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những lời đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 72. PHÚ-LAN-NA [37]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú Tỳ-da-ly, trong giảng đường Trùng-các, bên bờ ao Di-hầu.

Bấy giờ có người Li-xa [38] tên là Ma-ha-nam [39], thường [20c] ngày hay du hành đến chỗ đức Phật. Li-xa này bấy giờ tự nghĩ: ‘Nếu ta đến sớm chỗ Phật, thì hiện giờ đức Thế Tôn và các Tỳ-kheo quen biết của ta đều đang thiền tư. Bây giờ ta nên đến chỗ ngọai đạo A-kì-tì [40] nơi bảy cây yêm-la.’ Rồi ông đến chỗ ở của Phú-lan-na Ca-diếp [41] này.

Hiện Phú-lan-na Ca-diếp đang là thủ lãnh chúng ngoại đạo gồm năm trăm người, đang vây quanh trước sau, tiếng cười đùa huyên náo, bàn luận việc thế gian. Bấy giờ, Ca-diếp từ xa nhìn thấy Li-xa Ma-ha-man đang đến, liền bảo các quyến thuộc của mình nên giữ yên tĩnh, “Các ông nên giữ yên lặng. Đó là Li-xa Ma-ha-man, đệ tử của Sa-môn Cù-đàm.Trong hàng đẹ tử áo trắng của Sa-môn Cù-đàm ở Tì-da-li, oong này là người thượng thủ. Ông ta luôn thích sự tĩnh lặng, và khen ngợi sự tĩnh lặng. Ông ta đến nơi nào mà đồ chúng tĩnh lặng, vì thế cho nên các ông hãy giữ sự yên lặng.”

Khi Ma-ha-nam đến chỗ đồ chúng Phú-lan-na, cùng với Phú-lan-na thăm hỏi sức khỏe nhau, rồi ngồi qua một bên. Bấy giờ, Ma-ha-nam hỏi Phú-lan-na rằng:

“Tôi nghe Phú-lan-na nói pháp cho các đệ tử rằng, không có nhân, không có duyên cho sự cấu uế của chúng sanh; không có nhân, không có  duyên cho sự thanh tịnh của chúng sanh. Hiện thế gian đang truyền luận thuyết này. Ông nên xem xét lại, có phải đây là những lời hủy báng nhau của người ngoài, hay người đời bày đặt ra? Đó là pháp, hăy phi pháp? Ông có cùng tranh luận với người đới, bị nạn vấn, bị chỉ trích không?”

Phú-lan-na Ca-diếp đáp:

“Thật sự, có luận thuyết này, chứ không phải là người đời ngoa truyền. Tôi đã lập ra luận thuyết này. Đó là luận như pháp. Tôi đã nói pháp này tất cả đều thuận theo pháp. Không có người thế gian nào đến đây nạn vấn và chỉ trích. Vì sao? Ma-ha-nam, tôi thấy như vậy, nói như vậy: ‘Không có nhân, không có duyên cho sự cấu uế của chúng sanh; không có nhân, không có  duyên cho sự thanh tịnh của chúng sanh.’”

Ma-ha-nam nghe những gì Phú-lan-na đã nói, lòng không vui thích; ông chỉ trích, rồi rời chỗ ngồi đứng dậy mà ra về. Ông đi đến chỗ đức Thế Tôn, đầu mặt lạy sát chân Phật, rồi ngồi qua một bên, đem tất cả mọi chuyện đã bàn luận cùng Phú-la-na trình hết lên Thế Tôn.

Phật bảo Li-xa Ma-ha-nam:

“Đó là nhừng lời nói không cân nhắc [42] của Phú-lan-na, không đáng để ghi nhớ. Như vậy, Phú-lan-na là người ngu si, thiếu hiểu biết, không thiện xảo, khi chủ trương không nhân mà nói như vầy: ‘không có nhân, không có duyên cho sự cấu uế của chúng sanh; không có nhân, không có  duyên cho sự thanh tịnh của chúng sanh.’ Vì sao? Có nhân, có duyên chúng sanh có cấu uế; có nhân, có duyên chúng sanh thanh tịnh. 

“Ma-ha-nam, do nhân gì, duyên gì mà chúng sanh có [21a] cấu uế?

“Này Ma-ha-nam, nếu sắc chỉ một mực là khổ, không phải lạc, không phải tùy lạc, không được trưởng dưỡng bởi lạc, xa lìa lạc, thì chúng sanh đã không nhân đây mà sanh ra sự ái lạc đắm trước. Nhưng, này Ma-ha-nam, sắc chẳng phải chỉ một mực là khổ, không phải lạc, mà nó tùy lạc, được trưởng dưỡng bởi lạc, chẳng xa lìa lạc, cho nên chúng sanh nhiễm đắm sắc. Do nhiễm đắm nên bị trói buộc; vì bị trói buộc, nên có phiền não.

“Này Ma-ha-nam, nếu thọ, tưởng, hành, thức chỉ một mực là khổ, không phải lạc, không phải tùy lạc, không được trưởng dưỡng bởi lạc, xa lìa lạc, thì chúng sanh đã không nhân đây mà sanh ra sự ái lạc đắm trước. Nhưng, này Ma-ha-nam, vì… thức chẳng phải chỉ một mực là khổ, không phải lạc, mà nó tùy lạc, được trưởng dưỡng bởi lạc, chẳng xa lìa lạc, cho nên chúng sanh nhiễm đắm… thức. Vì đã bị nhiễm đắm nên bị trói buộc; vì bị trói buộc nên sanh ra phiền não.

“Đó gọi là có sự cấu uế của chúng sanh là có nhân, có duyên.

“Ma-ha-nam, vì nhân gì, duyên gì mà chúng sanh thanh tịnh?

“Này Ma-ha-nam, nếu sắc chỉ một mực là lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải tùy khổ, chẳng phải trưởng dưỡng ưu khổ, xa lìa khổ, thì chúng sanh không nên nhân sắc này mà sanh ra nhàm chán, xa lìa. Nhưng, này Ma-ha-nam, vì sắc chẳng phải chỉ một mực là lạc, mà nó là khổ, tùy khổ, nuôi lớn sầu khổ, chẳng xa lìa khổ, cho nên chúng sanh đối với sắc sanh ra nhàm chán, xa lìa. Vì nhàm chán nên không thích; vì không thích nên giải thoát.

“Này Ma-ha-nam, nếu thọ, tưởng, hành, thức chỉ một mực là lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải tùy khổ, chẳng phải trưởng dưỡng ưu khổ, xa lìa khổ, thì chúng sanh không nên nhân nơi… thức mà sanh ra nhàm chán, xa lìa. Nhưng, này Ma-ha-nam, vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải chỉ một mực là lạc, mà nó là khổ, tùy khổ, nuôi lớn sầu khổ, chẳng xa lìa khổ, cho nên chúng sanh đối với sắc sanh ra nhàm chán, xa lìa. Vì nhàm chán nên không thích; vì không thích nên giải thoát.

“Này Ma-ha-nam, đó gọi là sự thanh tịnh của chúng sanh là có nhân, có duyên.”

Khi Ma-ha-nam nghe những lời đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

Bài kệ tóm tắt

Tri pháp cùng trọng đảm,

Vãng nghệ, quán, dục tham.

Kinh sanh, và lược thuyết,

Pháp ấn, Phú-lan-na.

KINH 73. TRÚC VIÊN [43]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú tại Chi-đề, tinh xá Trúc viên.

Bấy giờ đức Thế Tôn hỏi các Tỳ-kheo:

“Đa văn Thánh đệ tử ở nơi cái gì mà thấy vô thường, khổ?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật rằng:

“Thế Tôn là gốc pháp, là con mắt pháp, là nơi nương tựa của pháp, cúi xin vì chúng con mà nói. Sau khi nghe xong các Tỳ-kheo sẽ y như những lời dạy mà thực hành.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ! Ta sẽ vì các ngươi mà nói.

“Đa văn Thánh [21b] đệ tử ở nơi sắc thấy là vô thường, khổ; ở nơi thọ, tưởng, hành, thức thấy là vô thường, khổ.

“Tỳ-kheo, sắc là thường hay là vô thường?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn, là vô thường.”

“Tỳ-kheo, vô thường là khổ phải không?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn, là khổ.”

“Tỳ-kheo, nếu vô thường, khổ, là pháp biến dịch, vậy thì là đa văn Thánh đệ tử ở trong đó có thấy ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn, không.”

“Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Cho nên, Tỳ-kheo, những gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế ; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả chúng đều chẳng phải ngã, chẳng khác ngã, chẳng ở trong nhau. Thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Đa văn Thánh đệ tử quán sát như vậy mà nhàm chán sắc, nhàm chán thọ, tưởng, hành, thức. Vì nhàm chán nên không còn thích; vì không thích nên được giải thoát; vì đã được giải thoát cho nên biết rằng, tự biết ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những lời đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 74. TÌ-DA-LY [44]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú Tì-da-li, trong giảng đường Trùng-các, bên bờ ao Di-hầu.

Bấy giờ, đức Thế Tôn hỏi các Tỳ-kheo:

“Đa văn Thánh đệ tử ở nơi cái gì thấy chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau, mà quán chánh xác bình đẳng như vậy, và tri kiến như thật”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là con mắt pháp, là nơi nương tựa của pháp, cúi xin vì chúng con mà nói. Sau khi nghe xong các Tỳ-kheo sẽ y như những lời dạy mà thực hành.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ! Ta sẽ vì các ngươi mà nói.

“Đa văn Thánh đệ tử ở nơi sắc thấy chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau. Đó gọi là quán chánh xác như thật. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Sắc là thường hay là vô thường?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn, là vô thường.”

Lại bảo các Tỳ-kheo:

“Vô thường là khổ chăng?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn, là khổ.”

“Tỳ-kheo, nếu vô thường, khổ, là pháp biến dịch, vậy thì là đa văn Thánh đệ tử ở trong đó có thấy có ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn, không.”

“Thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Cho nên, Tỳ-kheo, những gì là các sắc, hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả chúng đều chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau. Đó gọi là quán chánh xác như thật. [21c] Thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Đa văn Thánh đệ tử quán sát như vậy đối với sắc được giải thoát, đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng được giải thoát. Ta nói người này giải thoát khỏi sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, não, khổ, cùng tụ khổ thuần lớn.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 75. THANH TỊNH [45]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Sắc là vô thường. Vô thường thì khổ. Khổ chẳng phải là ngã. Chẳng phải ngã, là tất cả kia chẳng phải ngã, chẳng khác ngã, chẳng ở trong nhau, biết như thật. Gọi đó là chánh quán. Thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Đa văn Thánh đệ tử, đối với năm thủ uẩn này quán sát chẳng phải ngã, chẳng phải ngã sở. Quán sát như vậy, đối với các thế gian cũng đều không có gì để chấp thủ. Vì không có gì để chấp thủ nên không có gì để đắm nhiễm; vì không có gì để đắm nhiễn nên tự mình giác ngộ Niết-bàn: ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những gì can làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những lời đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành

KINH 76. CHÁNH QUÁN SÁT [46]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Tỳ-kheo, ở nơi cái gì mà không thấy là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là con mắt pháp, là nơi nương tựa của pháp, cúi xin vì chúng con mà nói. Các Tỳ-kheo sau khi nghe xong sẽ y theo những lời dạy mà thực hành.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ! Ta sẽ vì ngưới mà nói.

“Phải chăng ở nơi sắc không thấy có ngã, khác ngã, ở trong nhau? Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.

“Tỳ-kheo, sắc có phải là vô thường?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn, là vô thường.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Có phải vô thường là khổ?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn, là khổ.”

“Tỳ-kheo, nếu vô thường, khổ, là pháp biến dịch, vậy đa văn Thánh đệ tử ở trong đó có thấy ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn, không.”

“Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Cho nên, Tỳ-kheo, những gì thuộc sắc, hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả chúng chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng phải ở trong nhau. Thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.

“Tỳ-kheo, đa văn Thánh đệ tử quán sát năm thủ uẩn là chẳng phải ngã, [22a] chẳng phải ngã sở. Khi quán sát như vậy, đối với các thế gian đều không có gì để chấp thủ. Không có gì để chấp thủ nên không có gì để đắm. Không có gì để đắm nên tự mình giác ngộ Niết-bàn: tự biết ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 77. VÔ THƯỜNG [47]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Nếu sắc vô thường mà có thường, thì sắc này không nên có bệnh, có khổ, và đối với sắc cũng không nên có những sự mong cầu phải như thế này hay không như thế này. Vì sắc là vô thường, nên đối với sắc có bệnh, có khổ sanh ra, và cũng không thể mong để được như thế này hay không như thế này. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.

“Tỳ-kheo, ý ngươi nghĩ sao? Sắc là thường hay là vô thường?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn, là vô thường.”

Này các Tỳ-kheo:

“Vô thường có phải là khổ?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn, là khổ.”

Này các Tỳ-kheo:

“Nếu vô thường, khổ, là pháp biến dịch, vậy Thánh đệ tử ở trong đó có thấy là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“ Thế Tôn, không.”

“Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Cho nên, Tỳ-kheo, những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai; hoặc trong , hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả chúng chẳng phải ngã, chẳng phải ngã sở, biết như thật. Thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Đa văn Thánh đệ tử chánh quán xác sắc. Do quán sát chánh xác sắc rồi mà sanh ra nhàm chán, ly dục, không ham thích, giải thoát. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng sanh ra nhàm chán, ly dục, không ham thích, giải thoát, biết rằng, tự biết ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành. 

KINH 78. KHỔ [48]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Sắc là khổ. Nếu sắc không phải là khổ, nơi sắc sẽ không có bệnh, có khổ sanh ra, và cũng không nên muốn [22b] như thế này hay không thể như thế này. Vì sắc là khổ, và vì sắc là khổ nên bệnh sanh ra nơi sắc, đối với sắc cũng có thể muốn như thế, hay không khiến như thế. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.

“Tỳ-kheo, sắc là thường hay là vô thường?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn, là vô thường.”

Này các Tỳ-kheo:

“Vô thường có phải là khổ?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn, là khổ.”

Này các Tỳ-kheo: 

“Nếu vô thường, khổ, là pháp biến dịch; vậy đa văn Thánh đệ tử ở trong đó có thấy ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn, không.”

“Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Cho nên, Tỳ-kheo, những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả chúng đều chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau, quán sát như thật. Thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Đa văn Thánh đệ tử đối với sắc sẽ được giải thoát, đối với thọ, tưởng, hành, thức sẽ được giải thoát. Ta nói người này sẽ giải thoát sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, não, khổ, và tụ khổ thuần lớn.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những lời đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành. [49]

KINH 79. PHI NGÃ [50]

 [7b22] Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Sắc không phải là ngã. Nếu sắc là ngã, không nên ở nơi sắc mà bịnh, khổ sanh, và cũng có [51] ước muốn khiến sắc là như vậy hay không như vậy. Vì sắc là không phải là ngã cho nên ở nơi sắc có bệnh, khổ sanh, và cũng không thể có [52] ước muốn khiến sắc như vậy, hay không như vậy. Thọ, tưởng, hành, và thức cũng lại như vậy.

“Tỳ-kheo, ý ngươi thế nào, sắc là thường hay là vô thường?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Là vô thường, bạch Thế Tôn.”

“Tỳ-kheo, nếu là vô thường, thì có phải là khổ?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Là [7c] khổ, bạch Thế Tôn.”

“Vậy, nếu vô thường là khổ, thì nó là pháp biến dịch. Đa văn Thánh đệ tử ở trong đó có nên thấy là có ngã, khác ngã, hay ở trong nhau?” [53]

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Không nên, bạchThế Tôn.”

“Đối với thọ, tưởng, hành, và thức lại cũng như vậy. Cho nên, Tỳ-kheo, những gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả chúng không phải là ngã, không phải khác ngã, hay không ở trong nhau. Hãy quán sát như vậy. Đối với thọ, tưởng, hành, và thức lại cũng như vậy.

“Tỳ-kheo, đa văn Thánh đệ tử, đối với năm thủ uẩn này, hãy quán sát như thật chúng là chẳng phải ngã, chẳng phải ngã sở. Khi quán sát như thật rồi, đối với thế gian không có gì phải chấp thủ. Vì đã không có gì để chấp thủ, nên cũng không có gì để đắm trước. Không có gì để đắm trước, nên tự giác ngộ Niết-bàn: tự biết ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, sẽ không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.  

KINH 80. NGŨ TỲ KHEO [54]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Lộc dã, nơi Tiên nhơn trú xứ, nước Ba-la-nại.

Bấy giờ Thế Tôn bảo năm vị Tỳ-kheo :

“Sắc không phải có ngã. [55] Nếu sắc mà có ngã, thì bệnh, khổ không thể sanh nơi sắc được, cũng có thể ước muốn khiến cho sắc như vầy hay không như vầy được. Vì sắc là vô ngã, cho nên nơi sắc bệnh, khổ sanh, và cũng không thể có ước muốn khiến cho sắc như vầy hay không như vầy được. Đối với thọ, tưởng, hành, và thức lại cũng như vậy.

“Tỳ-kheo, ý ngươi thế nào, sắc là thường hay là vô thường?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Là vô thường, bạchThế Tôn.”

“ Tỳ-kheo, vô thường là khổ chăng?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“ Là khổ, bạch Thế Tôn.”

“Tỳ-kheo, vô thường, là khổ, thì nó là pháp biến dịch. Đa văn Thánh đệ tử ở nơi sắc có nên thấy là ngã, khác ngã, hay ờ trong nhau không?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Không nên, bạch Thế Tôn.”

“Đối với thọ, tưởng, hành, và thức cũng lại như vậy.

“Cho nên, Tỳ-kheo, những gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; hãy quán sát như thật tất cả chúng chẳng phải là ngã, chẳng phải là ngã sở. Đối với thọ, tưởng, hành, và thức lại cũng như vậy.

“Này Tỳ-kheo, đa văn Thánh đệ tử đối với năm thủ uẩn này, hãy quán sát như thật thấy chẳng phải ngã, chẳng phải ngã sở. Quán sát như vậy, đối với thế gian đều không có gì để thủ. Không có gì để thủ, nên không có gì để đắm trước. Không có gì để [8a] đắm trước, cho nên tự giác ngộ Niết-bàn: tự biết ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 81. TAM CHÁNH SỸ [56]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú tinh xá Trúc viên, tại Chi-đề

Bấy giờ có ba vị chánh sĩ [57] mới xuất gia. Đó là Tôn giả A-nậu-luật-đà [58], Tôn giả Nan-đề [59], Tôn giả Kim-tỳ-la [60].

Bấy giờ, đức Thế Tôn biết trong tâm họ đang nghĩ những gì, nên răn dạy họ rằng:

“Tỳ-kheo, đây là tâm, đây là ý, đây là thức. Hãy tư duy điều này. Chớ tư duy điều này. Hãy đoạn trừ dục này, đoạn trừ sắc này, tự thân tác chứng, thành tựu và an trụ.

“Tỳ-kheo, có sắc nào là thường còn, không biến dịch, tồn tại mãi không?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch không, Thế Tôn.”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Lành thay! Lành thay! Sắc là vô thường, là pháp biến dịch, yểm ly, ly dục, diệt tận, tịch tĩnh. Sắc như vậy từ xưa tới nay, tất cả đều là pháp vô thường, khổ, biến dịch. Khi đã biết như vậy rồi, tất cả các lậu, hại, xí nhiên, ưu não đã từng duyên vào sắc này mà sanh ra, thảy đều bị đoạn diệt. Khi đã đoạn diệt rồi, không còn gì để chấp trước. Khi đã không còn gì để chấp trước rồi, sống an lạc. Khi đã sống an lạc rồi, đạt được Bát Niết-bàn. Đối với thọ, tưởng, hành, và thức lại cũng như vậy.”

Khi đức Phật nói kinh này, ba vị chánh sĩ lậu hoặc không còn khởi lên nữa, tâm được giải thoát.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 82. THẬP LỤC TỲ KHEO [61]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật ở trong vườn xoài Tán cái, [62] bên bờ sông Bạt-đề, [63] nước Ma-thâu-la [64]

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Hãy an trú nơi hòn đảo chính mình [65], an trú nơi nương tựa chính mình [66], an trú nơi hòn đảo pháp [67], an trú nơi nương tựa pháp [68], chứ đừng an trú nơi hòn đảo nào khác, hay nương tựa nơi nào khác.

“Tỳ-kheo hãy quán sát chân chánh, an trú nơi hòn đảo chính mình, an trú nơi nương tựa chính mình, an trú nơi hòn đảo pháp, an trú nơi nương tựa pháp, chứ đừng an trú nơi hòn đảo nào khác, hay nơi nương tựa nào khác.

“Do nhân gì mà ưu, bi, khổ, não sanh? Tại sao có bốn? Do bởi đâu, bị cái gì trói buộc? [69] Làm sao tự quán sát, ưu, bi, khổ, não chưa sanh nay sanh; ưu, bi, khổ, não đã sanh nay lại tăng trưởng rộng?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là con mắt pháp, là sở y của pháp. Cúi xin đức Thế Tôn vì chúng con mà nói, sau khi chúng con nghe xong, sẽ y như những lời dạy mà làm theo.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

 [8b] “Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà nói.

“Này các Tỳ-kheo, có sắc, nhân sắc mà bị trói buộc vào sắc; tự quán sát ưu, bi, khổ, não chưa sanh nay sanh, đã sanh rồi nay lại tăng trưởng rộng. Đối với thọ, tưởng, hành, và thức cũng lại như vậy.

“Tỳ-kheo, có sắc nào là thường hằng, không biến dịch, tồn tại mãi mãi không?”

Đáp:

“Bạch không, Thế Tôn.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:   

“Lành thay! Lành thay! Tỳ-kheo, sắc là vô thường. Thiện nam tử biết sắc là vô thường, khổ, biến dịch, dục, diệt tận, tịch tĩnh; từ xưa tới nay tất cả sắc đều là pháp vô thường, khổ, biến dịch; biết vậy rồi, nếu sắc là nhân duyên sanh ra ưu, bi, não, khổ, hãy nên đoạn trừ chúng. Khi đã đoạn trừ rồi, không còn gì để chấp trước. Không chấp trước nên sống an vui. Sống an vui, đó gọi là Niết-bàn. Đối với thọ tưởng, hành, và thức lại cũng như vậy.”

Khi đức Phật nói kinh này, mười sáu Tỳ-kheo không sanh các lậu, tâm đạt được giải thoát.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

Kệ tóm tắt

Trúc viên, Tì-xá-li,

Thanh tịnh, chánh quán sát,

Vô thường, khổ, phi ngã,

Năm, ba và mười sáu.

KINH 83. NGÃ [70]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Ta không tranh luận với thế gian. Thế gian tranh luận với Ta. Vì sao vậy? Tỳ-kheo, nếu người nào nói đúng pháp, người ấy không tranh luận với thế gian.

“Những gì người trí thế gian nói có, Ta cũng nói có. Cái gì người trí trong thế gian nói có, Ta cũng nói có? Tỳ-kheo, sắc là vô thường, khổ, là pháp biến dịch; người trí trong thế gian nói có, Ta cũng nói có. Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, và thức là vô thường, khổ, là pháp biến dịch; người trí thế gian nói có, Ta cũng nói có.

“Những gì người trí thế gian nói không, Ta cũng nói không. Cái gì người trí thế gian nói không, Ta cũng nói không? Tỳ-kheo, sắc là thường hằng, không biến dịch, tồn tại mãi mãi; điều đó người trí thế gian nói là không, Ta cũng nói là không. Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, và thức là thường hằng, không biến dịch, tồn tại mãi mãi; điều đó người trí nói là không, Ta cũng nói là không. Đó gọi là người trí thế gian nói không, Ta cũng nói không.

“Tỳ-kheo, có những pháp thế gian, ở trong thế gian [71], Ta đã tự chứng tri, tự giác ngộ, rồi vì mọi người mà phân biệt, giảng nói, hiển thị, nhưng những kẻ mù không có mắt trong thế gian đã không biết, không thấy, đó không phải là lỗi của Ta.

“Tỳ-kheo, những gì là pháp thế gian ở trong thế gian mà Ta đã tự chứng tri, tự giác ngộ, [8c] rồi vì mọi người phân biệt, giảng nói, hiển hiện, nhưng những kẻ mù không mắt, không biết không thấy? Tỳ-kheo, đó là, sắc là pháp vô thường, khổ, biến dịch, nó là pháp thế gian ở trong thế gian. Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, và thức là vô thường, khổ, là pháp thế gian ở trong thế gian .

“Tỳ-kheo, đó là pháp thế gian ở trong thế gian, mà Ta đã tự chứng tri, đã tự giác ngộ, rồi vì mọi người phân biệt, giảng nói, hiển hiện, nhưng những kẻ mù không mắt, không biết, không thấy. Đối với những kẻ mù, không mắt, không biết, không thấy kia, Ta làm gì được.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 84. TY HẠ [72]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Người đời làm nghề thấp hèn, bằng đủ mọi cách mưu sinh tìm cầu của cải, mà được giàu sang; điều đó người đời ai cũng biết. Như điều mà người đời biết, Ta cũng nói như vậy. Vì sao? Chớ nghĩ Ta khác người đời.

“Tỳ-kheo, giống như cùng một món đồ, có nơi người ta gọi là kiền-tỳ, có nơi gọi là bát, có nơi gọi là chủy-chủy-la, có nơi gọi là giá-lưu, có nơi gọi là tỳ-tất-đa, có nơi gọi là bà-xà-na, có nơi gọi là tát-lao [73], theo sự hiểu biết chỗ này hay chỗ kia. Ta cũng nói như vậy. Vì sao? Đừng nghĩ Ta khác người đời.

“Như vậy, này các Tỳ-kheo, có pháp thế gian mà Ta đã tự chứng tri, đã tự giác ngộ, rồi vì mọi người phân biệt, giảng nói, hiển hiện, nhưng những kẻ mù không mắt, không biết, không thấy. Đối với những kẻ mù, không mắt, không biết, không thấy kia, Ta làm gì được.”

“Tỳ-kheo, những gì là pháp thế gian ở trong thế gian mà Ta đã tự chứng tri, tự giác ngộ, rồi vì mọi người phân biệt, giảng nói, hiển hiện, nhưng những kẻ mù không mắt, không biết không thấy? Tỳ-kheo, đó là, sắc là pháp vô thường, khổ, biến dịch, nó là pháp thế gian ở trong thế gian. Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, và thức là vô thường, khổ, là pháp thế gian ở trong thế gian .

“Tỳ-kheo, đó là pháp thế gian ở trong thế gian, mà Ta đã tự biết, tự thấy,… cho đến, những kẻ mù không mắt, không biết không thấy, thì Ta làm gì được!”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 85. CHỦNG TỬ [74]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Có năm loại hạt giống. Năm loại đó là gì? Đó là, hạt giống từ rể, hạt giống từ thân, hạt giống từ đốt [75], hạt giống tự rụng, hạt giống từ quả. Năm loại hạt giống này tuy không bị gián đoạn, không bị hư hoại, không bị mục thối, không bị trúng gió [76], [9a] vừa chín, chắc hạt, có đất, nhưng nếu không có nước [77], những loại hạt giống đó không thể sanh trưởng lớn mạnh được. Nếu những hạt giống mới vừa chín tới, chắc hạt này, tuy không bị gián đoạn, không bị hư hoại, không bị mục thối, không bị trúng gió, có nước, nhưng nếu không có đất, chúng cũng không sanh trưởng lớn mạnh được. Nếu những hạt giống mới vừa chín tới, chắc hạt này, mà không bị gián đoạn, không bị hư hoại, không bị mục thối, không bị trúng gió, có nước, có đất đầy đủ, những hạt giống này sẽ sanh trưởng lớn mạnh.

“Tỳ-kheo, năm loại hạt giống này được ví cho các thủ uẩn cùng hiện hữu với thức. Đất được ví cho bốn thức trụ [78]. Nước được ví cho hỷ tham [79]. Bốn thủ [80] vin bám nơi thức mà trụ. Bốn thức trụ là những gì? Thức trụ ở trong sắc, vin bám sắc, được thuẩn ướt bằng hỷ tham, sanh trưởng lớn mạnh. Cũng vậy, thức trụ trong thọ, tưởng, và hành, vin bám thọ, tưởng, hành, được thuẩn ướt bằng hỷ tham, sanh trưởng lớn mạnh.

“Tỳ-kheo, thức ở trong đó, hoặc đến, hoặc đi, hoặc hiện, hoặc mất, hoặc sanh trưởng lớn mạnh.

“Tỳ-kheo, nếu ai nói lìa sắc, thọ, tưởng, và hành mà thức có đến, có đi, có hiện, có mất, có sanh, thì đó chỉ có trên ngôn thuyết, chứ nếu hỏi đến người ấy sẽ không biết, càng làm cho si mê, vì không phải là cảnh giới của nó.

“Đối với sắc giới [81] mà lìa tham. Khi đã lìa tham, sự trói buộc bởi ý sanh và sự ngưng trệ nơi sắc bị đoạn trừ [82]. Khi sự trói buộc bởi ý sanh [83] và sự ngưng trệ nơi thức bị đoạn trừ, thì sự vin bám bị cắt đứt [84]. Khi sự vin bám bị cắt đứt, thức cũng không còn chỗ trụ để sanh trưởng lớn mạnh trở lại. Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, và hành giới [85] lìa tham. Khi đã lìa tham, ý sanh xúc [86] và sự ngưng trệ nơi hành bị đoạn trừ. Khi ý sanh xúc và sự ngưng trệ nơi hành bị đoạn trừ, thì sự vin bám bị cắt đứt. Khi sự vin bám bị cắt đứt, hức cũng không còn chỗ trụ để sanh trưởng lớn mạnh trở lại. Vì đã không sanh trưởng cho nên không tác hành [87]. Khi đã không tác hành, thì trụ vững [88]. Do an trụ vững mà tri túc. Do tri túc mà giải thoát. [89] Do giải thoát mà đối với các thế gian không còn thứ gì để thủ, không còn gì để chấp trước. Khi đã không còn gì để thủ và không còn gì để chấp trước, do đó tự mình giác ngộ Niết-bàn: tự biết ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’

“Ta nói thức này, không đi sang đông, tây, nam, bắc, bốn phía, trên, dưới. Nó không đi đến đâu cả, mà chỉ ngay trong đời hiện tại sẽ nhập Niết-bàn, tịch diệt, thanh lương, thanh tịnh, chân thật. [90]”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 86. PHONG TRỆ [91]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Phong trệ [92], thì không giải thoát. Không phong trệ, thì được giải thoát.

“Thế nào là phong trệ không giải thoát?

“Tỳ-kheo, thức vin [9b] bám vào bốn thủ uẩn mà trụ. Bốn uẩn là những gì? Thức bị phong trệ bởi sắc mà trụ. Cũng vậy, thức bị phong trệ bởi thọ, tưởng, và hành mà trụ… cho đến chẳng phải là cảnh giới. [93] Đó gọi là phong trệ nên không giải thoát.

“Thế nào là không bị phong tỏa trì trệ, thì giải thoát?

“Đối với sắc giới ly tham; với thọ, tưởng, hành mà ly tham... cho đến thanh lương, thanh tịnh, chân thật. Đó gọi là không bị phong trệ, thì được giải thoát.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 87. NGŨ CHUYỂN [94]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Có năm thủ uẩn. Đó là sắc thủ uẩn; thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn. Ta đối với năm thủ uẩn này, có năm như thật tri. Như thật tri về sắc, về sự tập khởi của sắc, về vị ngọt của sắc, về tai hại của sắc và, về sự xuất ly sắc. Cũng vậy, như thật tri về thọ, tưởng, hành, thức, về sự tập khởi của thức, về vị ngọt của thức, về tai hại của thức và về sự xuất ly thức.

“Thế nào là như thật tri về sắc? Những gì là sắc là tất cả bốn đại, và sắc do bốn đại sanh ra. Đó gọi là sắc. Như vậy như thật tri về sắc.

“Thế nào là như thật tri về sự tập khởi của sắc? Ở nơi sắc có mà hỷ ái. Đó gọi là sự tập khởi của sắc. Như vậy như thật tri về sự tập khởi của sắc.

“Thế nào là như thật tri về vị ngọt của sắc? Hỷ lạc do duyên vào sắc mà sanh. Đó gọi là vị ngọt của sắc. Như vậy như thật tri về vị ngọt của sắc.

“Thế nào là như thật tri về sự tai hại của sắc? Sắc là vô thường, khổ, là pháp biến dịch. Đó gọi là sự tai hại của sắc. Như vậy như thật tri về sự tai hại của sắc.

“Thế nào là như thật tri về sự xuất ly sắc? Ở nơi sắc mà dục tham bị chế ngự, dục tham bị đoạn trừ, dục tham bị vượt thoát. Đó gọi là sự lìa sắc. Như vậy như thật tri về sự lìa sắc.

“Thế nào là như thật tri về thọ? Có sáu thọ thân. Thọ phát sanh từ nhãn xúc, thọ phát sanh từ tai, mũi, lưỡi, thân, và ý xúc. Đó gọi là sáu thọ. Như vậy như thật tri về thọ.

“Thế nào là như thật tri về sự tập khởi của thọ? Sự tập khởi của xúc là sự tập khởi của thọ. Như vậy như thật tri về sự tập khởi của thọ.

“Thế nào là như thật tri về vị ngọt của thọ? Hỷ lạc duyên vào sáu thọ mà sanh. Đó gọi là vị ngọt của thọ. Như vậy như thật tri về vị ngọt của thọ.

“Thế nào là như thật tri về cái tai hại của thọ? Thọ là vô thường, khổ, là pháp biến dịch. Đó gọi là tai hại của thọ. Như vậy như thật tri về sự tai hại của thọ.

“Thế nào là như thật tri về sự xuất ly thọ? Đối với thọ mà điều phục được dục tham, đoạn trừ được dục tham, vượt qua khỏi dục tham. Đó gọi là xuất ly thọ. Như vậy như thật tri về sự xuất ly thọ.

“Thế nào là như thật tri về về tưởng? Có sáu tưởng thân. Tưởng phát sanh bởi nhãn xúc; tưởng phát sanh bởi tai, mũi, lưỡi, thân, ý xúc. Đó [9c] gọi là tưởng. Như vậy như thật tri về tưởng.

“Thế nào là như thật tri về sự tập khởi của tưởng? Sự tập khởi của xúc là sự tập khởi của tưởng. Như vậy như thật tri về sự tập khởi của tưởng.

“Thế nào là như thật tri về vị ngọt của tưởng? Hỷ lạc do duyên vào tưởng mà sanh. Đó gọi là vị ngọt của tưởng. Như vậy như thật tri về vị ngọt của tưởng.

“Thế nào như thật tri về sự tai hại của tưởng? Tưởng là vô thường, khổ, là pháp biến dịch. Đó gọi là sự tai hại của tưởng. Như vậy như thật tri về sự tai hại của tưởng.

“Thế nào là như thật tri về sự xuất ly tưởng? Ở nơi tưởng mà điều phục được dục tham, đoạn trừ được dục tham, vượt qua khỏi dục tham. Đó gọi là sự lìa tưởng. Như vậy như thật tri về sự lìa tưởng.

“Thế nào là như thật tri về sự hiện hữu của hành? Có sáu tư thân. Tư phát sanh bởi nhãn xúc. Tư phát sanh bởi tai, mũi, lưỡi, thân, ý xúc. Đó gọi là hành. Như vậy như thật tri về hành.

“Thế nào là như thật tri về sự tập khởi của hành? Sự tập khởi của xúc là sự tập khởi của hành. Như vậy như thật tri về sự tập khởi của hành.

“Thế nào là như thật tri về vị ngọt của hành? Hỷ lạc do duyên vào hành mà sanh. Đó gọi là vị ngọt của hành. Như vậy như thật tri về vị ngọt của hành.

“Thế nào gọi là như thật tri về sự tai hại của hành? Hành là vô thường, khổ, là pháp biến dịch. Đó gọi là sự tai hại của hành. Như vậy như thật tri về sự tai hại của hành.

“Thế nào là như thật tri về sự xuất ly hành? Ở nơi hành mà điều phục được dục tham, đoạn trừ được dục tham, vượt qua khỏi dục tham. Đó gọi là sự xuất ly hành. Như vậy như thật tri về sự xuất ly hành.

“Thế nào là như thật tri về thức? Có sáu thức thân. Thức của mắt, thức của tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đó gọi là thức. Như vậy như thật tri về thức.

“Thế nào là như thật tri về sự tập khởi của thức? Sự tập khởi của sắc là sự tập khởi của thức. Như vậy như thật tri về sự tập khởi của thức.

“Thế nào là như thật tri về vị ngọt của thức? Hỷ lạc do duyên vào thức mà sanh. Đó gọi là vị ngọt của thức. Như vậy như thật tri về vị ngọt của thức.

“Thế nào là như thật tri về sự tại hại của thức? Thức là vô thường, khổ, là pháp biến dịch. Đó gọi là cái tai hại của thức. Như vậy như thật tri về sự tai hại của thức.

“Thế nào là như thật tri về sự xuất ly thức? Ở nơi thức mà điều phục được dục tham, đoạn trừ được dục tham, vượt qua khỏi dục tham. Đó gọi là sự lìa thức. Như vậy như thật tri về sự lìa thức.

“Tỳ-kheo, nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào đối với sắc mà biết như vậy, mà thấy như vậy, thì do biết như vậy, thấy như vậy người đó hướng đến ly dục, đó gọi là chánh hướng [95]. Ai hướng đến chân chánh, Ta nói người đó đã được thể nhập [96]. Đối với thọ, tưởng, hành, và thức lại cũng như vậy.

“Nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào đối với sắc mà biết như thật, thấy như thật; do biết như thật, thấy như thật, đối với sắc sanh yểm ly, ly dục, không khởi lên các lậu, tâm đạt được giải thoát. Ai đã đạt được tâm giải thoát, người đó thuần nhứt [97]. Người nào đã được thuần nhứt, [10a] nưoi người ấy phạm hạnh đã lập. Vơi ai phạm hạnh đã lập, người ấy không còn bị ai khống chế [98]. Đó gọi là đoạn tận khổ biên [99]. Đối với thọ, tưởng, hành, và thức lại cũng như vậy.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành. 

KINH 88. THẤT XỨ

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Có bảy xứ thiện [100], với ba phương pháp quán nghĩa [101], hoàn toàn [102] ở trong pháp này mà chứng đắc lậu tận [103], đắc vô lậu tâm giải thoát, huệ giải thoát, ngay trong đời này mà tự tri, tự thân chứng ngộ cụ túc và an trụ, biết rằng: tự biết ‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đới sau nữa.’

“Tỳ-kheo, thế nào là bảy xứ thiện? Tỳ-kheo biết như thật về sắc; biết như thật về sự tập khởi của sắc, về sự tận diệt của sắc, về con đường đưa đến sự diệt tận của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về sự xuất ly sắc. Cũng vậy, biết như thật về thọ, tưởng, hành, thức; biết như thật về sự tập khởi của thức, về sự tận diệt của thức, về con đường đưa đến sự diệt tận của thức, về vị ngọt của thức, về sự tai hại của thức, về sự xuất ly của thức.

“Thế nào là biết như thật về sắc? Những gì là sắc là tất cả bốn đại và sắc do bốn đại tạo ra. Đó gọi là sắc. Như vậy biết như thật về sắc.

“Thế nào là biết như thật về sự tập khởi của sắc? Ái hỷ là sự tập khởi của sắc. Như vậy biết như thật về sự tập khởi của sắc

“Thế nào là biết như thật về sự đọan tận của sắc? Ái hỷ diệt. Đó gọi là sự diệt tận của sắc. Như vậy biết như thật về sự diệt tận của sắc.

“Thế nào là biết như thật về con đường đưa đến sự tận diệt của sắc? Là tám chi Thánh đạo: chánh kiến, chánh chí, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định. Đó gọi là con đường đưa đến sự tận diệt của sắc. Như vậy biết như thật về con đường đưa đến sự tận diệt của sắc.

“Thế nào là biết như thật về vị ngọt của sắc? Hỷ lạc do duyên vào sắc mà sanh, Đó gọi là vị ngọt của sắc. Như vậy biết như thật về vị ngọt của sắc.

“Thế nào là biết như thật về sự tai hại của sắc? Sắc là vô thường, khổ, là pháp biến dịch. Đó gọi là sự tai hại của sắc. Như vậy biết như thật về sự tai hại của sắc.

“Thế nào là biết như thật về sự lìa sắc? Đối với sắc mà điều phục dục tham, đoạn trừ dục tham, vượt qua khỏi dục tham. Đó gọi là sự lìa sắc. Như vậy biết như thật về sự lìa sắc.

“Thế nào là biết như thật về sự hiện hữu của thọ? Có sáu loại thọ: mắt tiếp xúc sanh ra thọ, và tai, mũi, lưỡi, thân, ý khi tiếp xúc sanh ra thọ, đó gọi là sự hiện hữu của thọ, cũng gọi là cái biết như thật về sự hiện hữu của thọ.

“Thế nào là cái biết như thật về sự tập khởi của thọ? Sự tập khởi của xúc là sự tập khởi của thọ. Như vậy biết như thật về sự tập khởi của thọ.

“Thế nào là biết như thật về sự đoạn tận của thọ? Khi xúc diệt, thì đó là sự diệt tận của thọ, cũng gọi là cái biết như thật về sự diệt tận của thọ.

“Thế nào là biết như thật về con đường đưa đến sự tận diệt của thọ? Là tám thánh đạo: Chánh kiến... cho đến chánh định, đó gọi là con đường đưa đến sự tận diệt của thọ. Như [10b] vậy biết như thật về con đường đưa đến sự tận diệt của thọ.

“Thế nào là biết như thật về vị ngọt của thọ? Hỷ lạc do duyên thọ mà sanh. Đó gọi là vị ngọt của thọ. Như vậy biết như thật về vị ngọt của thọ.

“Thế nào là biết như thật về sự tai hại của thọ? Thọ là vô thường, khổ, là biến dịch. Đó gọi là cái tai hại của thọ. Như vậy biết như thật về sự tai hại của thọ.

“Thế nào là biết như thật về sự xuất ly thọ? Ở nơi thọ mà điều phục dục tham, đoạn trừ dục tham, vượt qua khỏi dục tham. Đó gọi là sự lìa thọ. Như vậy biết như thật vể sự lìa thọ.

“Thế nào là biết như thật về tưởng? Có sáu tưởng thân. Tưởng phát sanh từ xúc của mắt; tưởng phát sanh từ xúc của tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đó gọi là sự hiện hữu của tưởng. Như vậy biết như thật về sự hiện hữu của tưởng.

“Thế nào là biết như thật về sự tập khởi của tưởng? Tập khởi của xúc là tập khởi của tưởng. Như vậy biết như thật về sự tập khởi của tưởng.

“Thế nào là biết như thật về sự diệt tận của tưởng? Diệt tận xúc là diệt tận tưởng. Như vậy biết như thật về sự đoạn diệt của tưởng.

“Thế nào là biết như thật về con đường đưa đến sự diệt tận của tưởng? Là tám chi Thánh đạo: Chánh kiến... cho đến chánh định. Đó gọi là con đường đưa đến sự đoạn diệt của tưởng. Như vậy biết như thật về con đường đoạn diệt của tưởng.

“Thế nào là cái biết như thật về vị ngọt của tưởng? Hỷ lạc do duyên vào tưởng mà sanh ra. Đó gọi là vị ngọt của tưởng. Như vậy biết như thật về vị ngọt của tưởng.

“Thế nào là cái biết như thật về sự tai hại của tưởng? Tưởng là vô thường, khổ, là pháp biến dịch. Đó gọi là sự tai hại của tưởng. Như vậy biết như thật về sự tai hại của tưởng.

“Thế nào là biết như thật về sự xuất ly tưởng? Ở nơi tưởng mà điều phục dục tham, đoạn trừ dục tham, vượt qua khỏi dục tham. Đó gọi là sự xa lìa tưởng. Như vậy biết như thật về sự xuất ly tưởng.

“Thế nào là biết như thật về hành? Có sáu tư thân. Tư phát sanh từ xúc của mắt. Tư phát sanh từ xúc của tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đó gọi là sự hành. Như vậy biết như thật về sự hiện hữu của hành.

Thế nào là biết như thật về sự tập khởi của hành? Sự tập khởi của xúc là sự tập khởi của hành. Như vậy biết như thật về sự tập khởi của hành.

“Thế nào là biết như thật về sự diệt tận của hành? Sự diệt tận của xúc là sự diệt tận của hành. Như vậy biết như thật về sự diệt tận của hành.

“Thế nào là cái biết như thật về con đường đưa đến sự diệt tận của hành? Là tám chi Thánh đạo: Chánh kiến cho đến chánh định. Đó gọi là con đường đưa đến sự diệt tận của hành. Như vậy biết như thật về con đường đưa đến sự diệt tận của hành.

Thế nào là biết như thật về vị ngọt của hành? Hỷ lạc do duyên vào hành mà sanh ra, gọi là vị ngọt của hành. Đó gọi là biết như thật về vị ngọt của hành.

“Thế nào là biết như thật về sự tai hại của hành? Hành là vô thường, khổ, là pháp biến dịch. Đó gọi là sự tai hại của hành. Như vậy biết như thật về sự tai hại của hành.

“Thế nào là biết như thật về sự xuất ly hành? Ở nơi hành mà điều phục dục tham, đoạn trừ dục tham, vượt qua được dục tham. Đó gọi là sự xa lìa hành. Như vậy biết như thật về sự xa lìa hành.

“Thế nào là biết như thật về thức? Có sáu thức thân. Thức của mắt, [10c] tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đó gọi là sự hiện hữu của thức. Như vậy biết như thật về sự hiện hữu của thức.

“Thế nào là biết như thật về sự tập khởi của thức? Sự tập khởi của danh sắc là sự tập khởi của thức. Như vậy biết như thật về sự tập khởi của thức.

“Thế nào là biết như thật về sự diệt tận của thức? Sự diệt tận của danh sắc là sự diệt tận của thức. Như vậy biết như thật về sự diệt tận của thức.

“Thế nào là biết như thật về con đường đưa đến sự diệt tận của thức? Là tám chi Thánh đạo: chánh kiến cho đến chánh định. Đó gọi là con đường đưa đến sự diệt tận của thức. Như vậy biết như thật về con đường đưa đến sự diệt tận của thức.

“Thế nào là biết như thật về vị ngọt của thức? Hỷ lạc do duyên thức mà sanh. Đó gọi là vị ngọt của thức. Như vậy biết như thật về vị ngọt của thức.

“Thế nào là biết như thật về sự tai hại của thức? Thức là vô thường, khổ, là pháp biến dịch. Đó gọi là sự tai hại của thức. Như vậy biết như thật về sự tai hại của thức.

“Thế nào là cái biết như thật về sự xuất ly thức? Ở nơi thức mà điều phục dục tham, đoạn trừ dục tham, vượt qua khỏi dục tham. Đó gọi là sự xa lìa thức. Như vậy biết như thật về sự xa lìa thức.

“Tỳ-kheo, đó gọi là bảy xứ thiện.

“Thế nào là ba phương pháp quán nghĩa? Nếu, Tỳ-kheo, ở nơi hoang vắng, dưới gốc cây, hay nơi đồng trống, quán sát uẩn, giới, xứ [104] bằng phương tiện chân chánh [105] mà tư duy nghĩa của chúng. Đó gọi là ba phương pháp quán nghĩa của Tỳ-kheo.

“Đó gọi là bảy xứ thiện và ba phương pháp quán nghĩa của Tỳ-kheo, hoàn toàn ở trong trong pháp này mà chứng đắc lậu tận, đắc vô lậu tâm giải thoát, huệ giải thoát, ngay trong đời này mà tự tri, tự thân chứng ngộ cụ túc và an trụ, biết rằng, tự biết ‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 89. THỦ TRƯỚC [106]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Chấp thủ nên sanh đắm trước [107]. Không chấp thủ, không đắm trước. Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì ngươi mà nói.”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thưa vâng, con xin theo lời dạy.”

Phật bảo các Tỳ-kheo: 

“Thế nào là do chấp thủ nên sanh đắm trước? Phàm phu ngu si không học, ở nơi sắc thấy là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau [108]; thấy sắc là ngã, hay ngã sở để mà chấp thủ. Khi đã chấp thủ, nếu sắc kia chuyển biến hay đổi khác, tâm cũng chuyển theo [109]. Khi tâm đã chuyển theo, sanh ra sự chấp thủ, tâm bị nắm giữ mà đình trụ [110]. Sau khi nó đình trụ, [10c] sợ hãi phát sanh, chướng ngại tâm loạn [111], do thủ trước [112] vậy.

“Phàm phu ngu si vô học, ở nơi thọ, tưởng, hành, thức mà thấy là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau; thấy thức là ngã, hay ngã sở để mà chấp thủ. Khi đã chấp thủ, nếu thức kia chuyển biến hay đổi khác, tâm cũng chuyển theo. Khi tâm đã chuyển theo, sanh ra sự chấp thủ, nó nắm giữ tâm mà trụ. Sau khi nó trụ, sợ hãi phát sanh, chướng ngại tâm loạn; do thủ trước vậy. Đó gọi là thủ trước.

“Thế nào là không thủ, thì không đắm? Đa văn Thánh đệ tử ở nơi sắc không thấy ngã, khác ngã, hay ở trong nhau; ở nơi sắc không thấy ngã và ngã sở để mà chấp thủ. Không thấy ngã và ngã sở để mà chấp thủ, khi sắc kia chuyển biến, hay đổi khác, thì tâm cũng không chuyển theo. Tâm không chuyển theo, không sanh thủ trước, tâm không bị nắm giữ mà đình trụ. Do tâm không bị nắm giữ  mà đình trụ, không sanh sợ hãi, chướng ngại, tâm loạn; do không thủ trước vậy.

“Cũng vậy, ở nơi thọ, tưởng, hành, và thức không thấy ngã, khác ngã, hay ở trong nhau; ở nơi thức không thấy ngã và ngã sở để mà chấp thủ. Không thấy ngã và ngã sở để mà chấp thủ, khi thức kia chuyển biến, hay đổi khác, thì tâm cũng không chuyển theo. Tâm không chuyển theo, không sanh thủ trước, nắm giữ tâm khiến đình trụ. Do nó không nắm giữ tâm khiến đình trụ, không sanh sợ hãi, chướng ngại, tâm loạn; do không thủ trước vậy. Đó gọi là không thủ trước.

“Đó gọi là thủ trước, và không thủ trước.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 90. HỆ TRƯỚC [113]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Nếu có sanh thì có trói buộc [114], nếu không sanh thì không có trói buộc. Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà nói.

“Thế nào là nếu có sanh thì có trói buộc? Phàm phu ngu si vô học, không biết như thật về sự tập khởi của sắc, sự diệt tận của sắc, vị ngọt của sắc, sự tai hại của sắc, sự xuất ly sắc, nên ở nơi sắc mà ái hỷ, tán thán, thủ trước; ở nơi sắc thấy là ngã, là ngã sở mà chấp thủ. Khi đã chấp thủ rồi, nếu sắc kia biến chuyển hay đổi khác, tâm theo đó mà biến khác. Vì tâm theo đó biến khác, nên tâm bị nắm giữ mà đình trụ [115]. Vì tâm bị nắm giữ đình trụ nên sanh sợ hãi, chướng ngại, hoài vọng [116]. Vì có sanh nên có sự trói buộc [117]. Đối với thọ, tưởng, hành, và thức cũng lại như vậy. Đó gọi là có sanh nên có sự trói buộc.

“Thế nào là nếu không sanh thì không trói buộc? Đa văn Thánh đệ tử biết như thật về sự tập khởi của sắc, về sự tận diệt của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về sự xuất ly của sắc. Vì đã biết như thật, nên không ái hỷ, tán thán, thủ trước; không buộc chặt ngã, và ngã sở, mà chấp thủ. Vì không chấp thủ nên sắc kia nếu biến chuyển hay đổi khác, tâm không theo đó mà biến khác. Vì tâm không theo sự biến khác, nên tâm không bị trói buộc, nắm giữ tâm khiến đình trụ. Do không nắm giữ tâm khiến đình trụ, nên tâm không sợ hãi, chướng ngại, hoài vọng; vì không sanh nên không trói buộc vậy. Đó gọi là không sanh, nên không có trói buộc.

“Đối với thọ, tưởng, hành, và thức cũng lại như vậy. Đó gọi là không sanh, nên không bị trói buộc.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành. [11b]

KINH 91. GIÁC [118]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Có năm thủ uẩn. Những gì là năm? Sắc thủ uẩn, thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào thấy có ngã, thì tất cả cũng đều ở nơi năm thủ uẩn này mà thấy có ngã. Các Sa-môn, Bà-la-môn thấy sắc là ngã, sắc là khác ngã, hay ngã ở trong sắc, sắc ở trong ngã [119]; thấy thọ, tưởng, hành, và thức là ngã, khác ngã, ngã ở trong thức, thức ở trong ngã.

“Phàm phu ngu si vô học vì vô minh nên thấy sắc là ngã, là khác ngã, hay ở trong nhau và, nói ngã là chân thật nên không xả. Vì không xả nên các căn tăng trưởng. Khi các căn đã tăng trưởng rồi, thì sẽ sanh ra các xúc. Do bị xúc chạm bởi sáu xúc nhập xứ [120], do đó phàm phu ngu si vô học khởi lên cảm giác khổ lạc, từ xúc mà nhập xứ khởi lên. Những gì là sáu? nhãn xúc nhập xứ, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, và ý xúc nhập xứ .

“Như vậy, Tỳ-kheo, có ý giới, pháp giới, vô minh giới. Kẻ phàm phu ngu si vô học, vì vô minh xúc [121] cho nên khởi lên ý tưởng có, ý tưởng không, ý tưởng vừa có vừa không, ý tưởng ta hơn, ý tưởng ta bằng, ý tưởng ta kém, ý tưởng ta biết, ta thấy. Những ý tưởng biết như vậy, những ý tưởng thấy như vậy đều do sáu xúc nhập xứ mà phát sanh.

“Đa văn Thánh đệ tử ở nơi sáu xúc-nhập xứ này xả bỏ vô minh mà sanh minh. Không sanh ra ý tưởng về có, ý tưởng về không, ý tưởng về vừa có vừa không, ý tưởng hơn, ý tưởng bằng, ý tưởng kém, ý tưởng ta biết, ta thấy. Khi đã biết như vậy, đã thấy như vậy rồi, thì những gì do vô minh-xúc khởi lên trước kia sẽ bị diệt, và cảm thọ phát sanh do minh xúc sau đó sẽ khởi lên.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 92. TAM THẾ ẤM THẾ THỰC [122]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Có năm thủ uẩn. Những gì là năm? Sắc thủ uẩn, thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn.

“Sa-môn, Bà-la-môn nào nhờ trí túc mạng tự biết rõ những đời sống trước của mình, thì việc đã biết, đang biết, sẽ biết đều phát xuất từ năm thủ uẩn này. Việc đã biết đang biết, sẽ biết về đời quá khứ của ta đã từng trải qua, có sắc như vậy, thọ như vậy, tưởng như vậy, hành như vậy, thức như vậy.

“Cái gì có thể phân tán, trở ngại [123], cái đó gọi là sắc thủ uẩn [124]. Như bàn tay, đá, gậy, dao, bị trở ngại bởi ngón tay; hoặc do lạnh, nóng, khát, đói, hoặc do xúc bởi muỗi mòng, độc trùng, mưa gió; đó gọi là trở ngại do xúc [125]. Cho nên, chướng ngại, đó là sắc thủ uẩn. [11b] Lại nữa, sắc thủ uẩn này là vô thường, khổ, biến dịch.

“Những tướng cảm nhận, đó là thọ thủ uẩn [126]. Cảm nhận cái gì? Cảm nhận sự khổ, cảm nhận sự vui, cảm nhận sự không khổ không vui. Cho nên gọi tướng cảm nhận là thọ thủ uẩn. Lại nữa, thọ thủ uẩn này là vô thường, khổ, biến dịch.

“Các tưởng, là tưởng thủ uẩn [127]. Tưởng cái gì? Tưởng ít, tưởng nhiều, tưởng vô lượng, hoàn toàn không có gì tưởng là không có gì. Đó gọi là tưởng thủ uẩn. Lại nữa, tưởng thủ uẩn này là vô thường, khổ, là pháp biến dịch.

“Tướng tạo tác hữu vi là hành thủ uẩn [128]. Tạo tác cái gì? Tạo tác sắc, tạo tác thọ, tưởng, hành, và thức, cho nên tướng tạo tác hữu vi là hành thủ uẩn.

“Lại nữa, hành thủ uẩn này là pháp vô thường, khổ, biến dịch.

“Tướng phân biệt biết rõ là thức thủ uẩn [129]. Biết rõ cái gì? là biết rõ sắc, biết rõ thinh, hương, vị, xúc, và pháp, cho nên gọi là thức thủ uẩn. Lại nữa, thức thủ uẩn là pháp vô thường, khổ, biến dịch.

“Này các Tỳ-kheo, đa văn Thánh đệ tử kia đối với sắc thủ uẩn kia phải học như vầy, ‘Ta nay bị sắc hiện tại ăn [130]. Quá khứ đã từng bị sắc kia ăn, như trong hiện tại nay.’ Lại nghĩ như vầy, ‘Nay ta đang bị sắc hiện tại ăn, nếu mà ta ham muốn sắc vị lai, thì cũng sẽ bị sắc kia ăn như trong hiện tại.’ Biết như vậy rồi, người ấy không hoài niệm sắc quá khứ, không ham muốn sắc vị lai, đối với sắc hiện tại sanh yểm ly, lìa dục, diệt hết tai hại, hướng đến tịch diệt. Đa văn Thánh đệ tử đối với thọ, tưởng, hành, và thức thủ uẩn hãy học như vầy, ‘Ta nay bị thức hiện tại ăn. Quá khứ đã từng bị thức kia ăn, như trong hiện tại nay. Nếu mà ta ham muốn thức vị lai, thì cũng sẽ bị thức kia ăn như trong hiện tại.’ Biết như vậy rồi, người ấy không hoài niệm thức quá khứ, không ham muốn thức vị lai, đối với thức hiện tại sanh yểm ly, lìa dục, diệt tận [131], hướng đến tịch diệt. Ở đây, diệt chứ không tăng, lui chứ không tiến, diệt chứ không khởi, xả chứ không thủ. [132]

“Ở nơi cái gì diệt mà không tăng? Sắc diệt mà không tăng. Thọ, tưởng, hành, thức diệt mà không tăng.

“Ở nơi cái gì lùi mà không tiến? Sắc lùi mà không tiến. Thọ, tưởng, hành, thức lùi mà không tiến.

“Ở nơi cái gì diệt mà không khởi? Sắc diệt mà không khởi. Thọ, tưởng, hành, thức diệt mà không khởi.

“Ở nơi cái gì xả mà không thủ? Sắc xả mà không thủ. Thọ, tưởng, hành, thức xả mà không thủ.

“Diệt chứ [12a] không tăng, tịch diệt mà an trụ. Lùi chứ không tiến, im lặng lui mà an trụ. Diệt chứ không khởi, tịch diệt mà an trụ. Xả chứ không thủ, không sanh ra sự trói buộc. Không bị trói buộc, nên tự mình giác ngộ Niết-bàn: tự biết ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những việc gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Khi đức Phật nói kinh này số đông các Tỳ-kheo không khởi các lậu, tâm được giải thoát.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

Bài kệ tóm tắt

Ngã, ti hạ, chủng tử,

Phong trệ, ngũ chuyển, thất (xứ thiện)

Hai hệ trước và giác,

Tam thế uẩn thế thực.

Kinh 93. Tín [133]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Thiện nam có tín tâm [134] cần suy nghĩ như vầy: ‘Ta nên thuận theo pháp. Ta hãy an trụ với sự tu tập tu tập nhiều về yểm ly đối với sắc; an trụ với sự tu tập tu tập nhiều về yểm ly đối với thọ, tưởng, hành, thức.’ Thiện nam tử có tín tâm bèn an trụ với sự tu tập tu tập nhiều về yểm ly đối với sắc; an trụ với sự tu tập tu tập nhiều về yểm ly đối với thọ, tưởng, hành, thức, nên đối với sắc sanh yểm ly; đối với thọ, tưởng, hành, thức sanh yểm ly. Do yểm ly mà ly dục, giải thoát, giải thoát tri kiến, biết rằng: ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

Kinh 94. A-nan [135]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Thiện nam tử có tín tâm, chánh tín xuất gia, sống không gia đình, tự nghĩ: ‘Ta nên thuận theo pháp. Ta hãy an trụ với sự tu tập tu tập nhiều về yểm ly đối với sắc; an trụ với sự tu tập tu tập nhiều về yểm ly đối với thọ, tưởng, hành, thức.’ Thiện nam tử có tín tâm bèn an trụ với sự tu tập tu tập nhiều về yểm ly đối với sắc; an trụ với sự tu tập tu tập nhiều về yểm ly đối với thọ, tưởng, hành, thức, nên đối với sắc sanh yểm ly; đối với thọ, tưởng, hành, thức sanh yểm ly [136]. Ta nói người ấy chắc chắn sẽ được thoát ly khỏi tất cả sanh, già, bệnh, chết, ưu bi, khổ não.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành. 

Kinh 95. A-nan (1) [137]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với Tôn giả A-nan rằng:

“Hoặc trưởng giả hay con người trưởng giả có tín tâm, đến hỏi ngươi rằng, ‘Ở nơi pháp nào mà biết rõ được sự sanh và [12b] diệt của nó?’ [138] thì ngươi sẽ trả lời như thế nào?”

Tôn giả A-nan bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, nếu có trưởng giả hay con trưởng giả  đến hỏi con như vậy, thì con sẽ đáp rằng, ‘Biết sắc là pháp sanh diệt; [139] biết thọ, tưởng, hành, thức là pháp sanh diệt.’ Bạch Thế Tôn, nếu có trưởng giả hay con trưởng giả  hỏi như vậy, thì con sẽ trả lời như vậy.”

Phật bảo Tôn giả A-nan:

“Lành thay! Lành thay! Nên đáp như vậy. Vì sao vậy? Sắc là pháp sanh diệt; thọ tưởng, hành, thức là pháp sanh diệt. Biết sắc là pháp sanh diệt, đó gọi là biết sắc. Biết thọ, tưởng, hành, thức cũng là pháp sanh diệt, đó gọi là biết… thức.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

Kinh 96. A-nan (2) [140]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Nếu có các ngoại đạo xuất gia đến hỏi ngươi rằng, ‘A-nan, vì sao Thế Tôn dạy người tu các phạm hạnh.’ Được hỏi như vậy, nên đáp thế nào?”

Tôn giả A-nan bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, nếu có người ngoại đạo xuất gia đến hỏi con rằng, ‘A-nan, vì sao Thế Tôn dạy người tu các phạm hạnh?’ thì con sẽ trả lời rằng, ‘Vì để đối với sắc, tu tập yểm ly, ly dục, diệt tận, giải thoát, không sanh, nên đức Thế Tôn dạy tu các phạm hạnh. Vì để đối với thọ, tưởng, hành, thức, tu tập yểm ly, ly dục, diệt tận, giải thoát, không sanh, nên dạy tu các phạm hạnh.’ Bạch Thế Tôn, nếu có người ngoại đạo xuất gia hỏi như vậy, thì con cũng sẽ đáp như vậy.”

Phật bảo Tôn giả A-nan:

“Lành thay! Lành thay! Nên đáp như vậy. Vì sao vậy? Thật vậy, Ta vì đối với sắc, tu tập yểm ly, lìa dục, diệt tận, giải thoát, không sanh, nên dạy tu các phạm hạnh. Vì đối với thọ, tưởng, hành, thức, tu tập yểm ly, ly dục, diệt tận, giải thoát, không sanh, nên dạy tu các phạm hạnh.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 97. HOẠI PHÁP [141]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Nay Ta sẽ vì các ngươi nói pháp hoại và bất hoại [142]. Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà nói.

“Này các Tỳ-kheo, sắc là pháp hoại. Sắc kia diệt, là Niết-bàn, là pháp bất hoại [143]. Thọ, tưởng, hành, thức là pháp hoại. Thức kia diệt, là Niết-bàn, là pháp bất hoại.”

Phật nói kinh này xong, các [12b] Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 98. UẤT-ĐÊ-CA

Như trong Tăng nhất A-hàm, phẩm Bốn pháp. [144]

KINH 99. BÀ-LA-MÔN [145]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật du hành trong nhân gian, đến ở trong rừng Thân-thứ [146], phía bắc tụ lạc Tát-la [147] thuộc nước Câu-tát-la [148].

Bấy giờ chủ tụ lạc Bà-la-môn Đại Tánh nghe đồn rằng, “Sa-môn dòng họ Thích, ở nơi dòng họ lớn Thích-ca mà cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chánh tín xuất gia, học đạo, sống không gia đình, thành bậc Vô thượng Đẳng Chánh Giác, đang du hành trong nhơn gian, đến ở trong rừng Thân-thứ, phía bắc tụ lạc Tát-la thuộc nước Câu-tát-la này. Lại nữa, Sa-môn Cù-đàm này, tướng mạo danh xưng, công đức chân thật như vậy được cả trời và người ca tụng, tiếng đồn bay khắp tám phương: Ngài là Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Ngài ở giữa các cõi, chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, với trí tuệ rộng lớn có thể tự mình chứng biết rõ rằng: ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những điều gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’ Ngài vì đời  mà nói pháp, khoảng đầu, khoảng giữa, và khoảng cuối đều toàn thiện; có nghĩa, có vị đều thiện, thuần nhứt thanh tịnh, phạm hạnh thanh bạch, diễn nói chánh pháp vi diệu. Lành thay, nên gặp! Lành thay, nên đi đến! Lành thay, nên cung kính thừa sự!”

Nghĩ như vậy rồi, ông liền sửa soạn xe cộ, đem theo nhiều tùy tùng, bưng bình vàng, người cầm lọng cán vàng, đi đến chỗ đức Phật, cung kính phụng sự. Khi đến cửa rừng, ông xuống xe đi bộ đến chỗ đức Thế Tôn. Sau hỏi thăm sức khỏe có an lành không, ông ngồi qua một bên, bạch đức Thế Tôn rằng:

“Thưa Sa-môn Cù-đàm, Ngài luận về cái gì? Thuyết về cái gì?”

Phật bảo Bà-la-môn:

“Ta luận về nhân, và thuyết về nhân.”

Lại bạch Phật rằng:

“Thế nào là luận về nhân? Thế nào là thuyết về nhân?”

Đức Phật bảo Bà-la-môn:

“Có nhân, có duyên để thế gian tập khởi; có nhân, có duyên để tập khởi thế gian. Có nhân, có duyên để thế gian diệt; có nhân, có duyên diệt thế gian.”

Bà-la-môn bạch Phật rằng:

“Thưa Thế Tôn, thế nào là có nhân, có duyên để thế gian tập khởi? và có nhân, có duyên để tập khởi thế gian?”

Đức Phật bảo Bà-la-môn:

“Phàm phu ngu si không học, nên không biết như thật về sự tập khởi của sắc, về sự diệt tận của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về sự xuất ly sắc. Vì không biết như thật, nên ái lạc sắc, khen ngợi sắc, tâm nhiễm đắm mà trụ. Kia đối với sắc mà ái lạc nên sanh thủ. Duyên thủ [13a] nên có hữu; duyên hữu nên có sanh; duyên sanh nên có lão, tử, ưu, bi, não, khổ. Đó chính là sự tập khởi của toàn bộ khối khổ lớn. Đối với thọ, tưởng, hành, thức, lại cũng như vậy. Này Bà-la-môn, đó gọi là có nhân, có duyên để thế gian tập khởi; có nhân, có duyên để tập khởi thế gian.”

Bà-la-môn bạch Phật:

“Thế nào là có nhân, có duyên để thế gian diệt tận? và có nhân, có duyên để diệt tận thế gian?”

Đức Phật bảo Bà-la-môn:

“Đa văn Thánh đệ tử biết như thật về sự tập khởi của sắc, về sự diệt tận của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về sự xuất ly sắc. Do biết như thật, đối với sắc không ái lạc, không khen ngợi, không nhiễm đắm, không lưu trú. Không ái lạc, không lưu trú, nên sắc ái bị diệt. Ái diệt nên thủ diệt; thủ diệt nên hữu diệt; hữu diệt nên sanh diệt; sanh diệt nên lão, tử, ưu, bi, não, khổ diệt. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Này Bà-la-môn, đó gọi là có nhân, có duyên để thế gian diệt tận; cũng gọi là có nhân, có duyên để diệt tận thế gian.

“Này Bà-la-môn, đó gọi là luận nhân, đó gọi là thuyết nhân.

Bà-la-môn bạch Phật rằng:

“Thưa Cù-đàm, luận nhân là như vậy, thuyết nhân là như vậy. Tôi bận nhiều việc thế gian, nay xin từ giã ra về.”

Phật bảo Bà-la-môn:

“Nên biết đúng thời.”

Phật nói kinh này xong, các Bà-la-môn nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ tùy hỷ, lễ sát chân rồi lui.

KINH 100 THẾ GIAN [149]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Lộc dã, Tiên nhơn trụ xứ, nước Ba-la-nại.

Bấy giờ có Bà-la-môn tại tụ lạc Tì-ca-đa-lỗ-ca [150] đi đến chỗ đức Phật, cung kính thăm hỏi, lùi ngồi một bên, bạch đức Phật rằng:

“Thưa Cù-đàm, tôi có một đệ tử trẻ biết thiên văn, biết chủng tộc, xem tướng tốt, xấu cho mọi người; nói có, ắt là có; nói không, ắt là không; nói thành, ắt là thành; nói hoại, ắt là hoại. Thưa Cù-đàm, ý Ngài nghĩ sao?”

Phật bảo Bà-la-môn:

“Hãy gác qua việc đệ tử trẻ của Ông biết thiên văn, biết chủng tộc. Nay Ta hỏi Ông, tùy theo ý Ông mà trả lời.

“Này Bà-la-môn, ý ông nghĩ sao, sắc vốn không có chủng loại [151] chăng?”

Đáp: “Đúng vậy, Thế Tôn.”

“Thọ, tưởng, hành, thức vốn không có chủng loại chăng?”

Đáp: “Đúng vậy, Thế Tôn.”

Phật bảo Bà-la-môn:

“Ông bảo rằng đệ tử trẻ của Ông, biết thiên văn, biết chủng tộc, vì mọi người mà nói như vầy: nói có, ắt là có; nói không, ắt là không. Vậy cái biết cái thấy này không phải là không thật chăng?”

Bà-la-môn bạch Phật:

“Đúng vậy, Thế Tôn.”

Phật bảo Bà-la-môn: [13b]

“Ý Ông nghĩ sao? Có loại sắc nào còn mãi trăm năm không? khác với sanh, khác với diệt chăng? Thọ, tưởng, hành, thức còn mãi trăm năm chăng? Hay khác với sanh, khác với diệt chăng?”

Đáp: “Đúng vậy, Thế Tôn.

Phật bảo Bà-la-môn:

“Ý Ông nghĩ sao? Đệ tử trẻ của Ông, biết thiên văn, biết chủng tộc, vì mọi người nói là thành chứ không hoại; vậy cái biết, cái thấy này không phải là không thay đổi chăng?”

Đáp: “Đúng vậy, Thế Tôn.”

Phật bảo Bà-la-môn:

“Ý Ông nghĩ sao? Pháp này, và pháp kia; thuyết này, và thuyết kia, quan điểm nào hơn?”

Bà-la-môn bạch Phật:

“Thưa Thế Tôn, ở đây là nói như pháp, như những gì đức Phật đã nói, hiển bày, khai phát. Cũng như có người bị chìm xuống nước được cứu hộ, người bị tù tội được giải thoát ra, người lạc đường được chỉ nẻo đi, nơi tăm tối được đèn sáng. Hôm nay, đức Thế Tôn khéo nói pháp thù thắng, cũng lại hiển bày, khai phát như vậy.”

Phật nói kinh này xong, Bà-la-môn Tỳ-ca-đa-lỗ-ca nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ tùy hỷ, liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ sát chân rồi lui.

KINH 101 UẨN [152]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Lộc dã, Tiên nhơn trụ xứ, nước Ba-la-nại.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nay, Ta sẽ nói về uẩn, và thủ uẩn.

“Thế nào là uẩm? Những gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả chúng được gọi chung là sắc uẩn.

“Tùy theo những gì là thọ, tưởng, hành, thức; tất cả được gọi chung là thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Đó gọi là uẩn.

“Thế nào là thủ uẩn? Sắc hữu lậu, chấp thủ; sắc kia hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai, phát sanh ra tham dục, sân nhuế, ngu si, và các thứ tâm pháp tùy phiền não [153] khác. Thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Đó gọi là thủ uẩn.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 102. LẬU VÔ LẬu [154]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Lộc dã, Tiên nhơn trụ xứ, nước Ba-la-nại.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nay Ta sẽ nói về pháp hữu lậu và vô lậu.

“Thế nào là pháp hữu lậu? Sắc là pháp hữu lậu, bị chấp thủ; sắc sanh ra ái và nhuế. Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức là pháp hữu lậu, bị chấp thủ; thức kia sanh ra ái và nhuế. Đó gọi là pháp hữu lậu.

“Thế nào là pháp vô lậu? Những gì là sắc vô lậu, không bị chấp thủ [155]; sắc kia hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai, sắc kia [13c] không sanh ái, nhuế. Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức là vô lậu, không chấp thủ; thức kia hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai, không sanh ái, nhuế. Đó gọi là pháp vô lậu.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.  

Kệ tóm tắt

Hai tín, hai A-nan,

Pháp hoại, Uất-để-ca,

Bà-la và thế gian,

Trừ pháp lậu, vô lậu.

KINH 103. TẬT LẬU TẬN [156]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn đắp y ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực. Sau đó, lại ôm y bát, không nói với chúng, không bảo thị giả, một thân một mình, đến quốc độ phương Tây, du hành trong nhơn gian. [157]

Bấy giờ, trong rừng An-đà có một Tỳ-kheo từ xa trông thấy Thế Tôn ra đi, không nói với chúng, không bảo thị giả, một thân một mình. Sau khi thấy vậy, liền đến chỗ Tôn giả A-nan, bạch Tôn giả A-nan rằng:

“Tôn giả biết cho, đức Thế Tôn, không nói với chúng, không bảo thị giả, một thân một mình ra đi du hành.”

Bấy giờ, Tôn giả A-nan nói với Tỳ-kheo kia:

“Nếu như đức Thế Tôn không nói với chúng, không bảo thị giả, một thân một mình ra đi du hành, thì chúng ta không nên đi theo. Vì sao? Ngày hôm nay đức Thế Tôn muốn ít bận rộn để an trụ tịch diệt [158].”

Bấy giờ đức Thế Tôn du hành về phương Bắc, đến trụ dưới tàn cây Bạt-đà-tát-la [159], trong rừng cây có người giữ gìn, tại tụ lạc Ba-đà [160] thuộc nước Bán-xà [161].

Sau khi đức Thế Tôn đi rồi, có một số đông Tỳ-kheo đến chỗ Tôn giả A-nan, thưa với Tôn giả A-nan rằng:

“Ngài có nghe hiện nay đức Thế Tôn đang ở nơi nào không?”

Tôn giả A-nan đáp:

“Tôi có nghe, hiện nay đức Thế Tôn đang ở về phương Bắc, dưới tàn cây Bạt-đà-tát-la, trong rừng cây có người giữ gìn, tại tụ lạc Ba-đà thuộc nước Bán-xà.”

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nói với Tôn giả A-nan rằng:

“Tôn giả biết cho, đã lâu rồi chúng tôi không gặp đức Thế Tôn. Nếu ngài không ngại cực nhọc, có thể cùng chúng tôi đến chỗ đức Thế Tôn. Xin thương xót cho!”

Tôn giả A-nan biết đã đúng lúc, nên im lặng mà nhận lời.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan cùng số đông Tỳ-kheo chờ qua đêm, sáng sớm đắp y ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực. Khất thực xong trở về tinh xá, sắp xếp ngọa cụ, họ mang y bát, đi về hướng Tây, du hành trong nhân gian, rồi quay về hướng Bắc, đến khu rừng có người giữ gìn, tại tụ lạc Ba-đà, thuộc nước Bán-xà.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan cùng số đông Tỳ-kheo sắp xếp y bát, rửa chân xong, đến chỗ đức [14a] Thế  tôn, đầu mặt lạy sát chân Phật, rồi ngồi qua một bên.

Bấy giờ, đức Thế Tôn vì số đông Tỳ-kheo nói pháp, khai thị, giáo giới, làm cho lợi ích, làm cho an lạc [162].

Vào lúc ấy, giữa chúng có một Tỳ-kheo nghĩ rằng: “Biết như thế nào, thấy như thế nào để nhanh chóng chứng đắc lậu tận?”

Bấy giờ, đức Thế Tôn biết được những ý nghĩ của Tỳ-kheo kia, nên bảo các Tỳ-kheo:

“Có Tỳ-kheo đang ở trong chỗ ngồi này nghĩ rằng: ‘Biết như thế nào, thấy như thế nào để nhanh chóng chứng đắc lậu tận [163]?’ Ta đã từng nói pháp rằng: ‘Hãy khéo léo quán sát các uẩn; đó là bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác phần, tám chi Thánh đạo.’ Ta đã từng nói những pháp như vậy để quán sát các uẩn. Thế mà hiện nay vẫn còn có thiện nam tử không muốn nổ lực siêng thực hành, không nổ lực siêng vui thích, không nổ lực siêng suy nghĩ, không nổ lực siêng tin tưởng, mà tự biếng lười, không nổ lực tăng tiến để diệt tận được các lậu.

“Lại nữa, nếu có thiện nam tử đối với những gì Ta đã nói, mà quán sát các uẩn, nổ lực siêng ham muốn, nổ lực siêng vui thích, nổ lực siêng suy nghĩ, nổ lực siêng tin tưởng, thì có thể nhanh chóng chứng đắc lậu tận.

“Phàm phu ngu si không học, ở nơi sắc thấy là ngã. Nếu thấy ngã, thì đó gọi là hành [164]. Hành này, cái gì làm nhân, cái gì là tập khởi; cái gì sanh, và cái gì chuyển? [165] Ái được sanh bởi vô minh xúc [166], và duyên vào ái nên khởi lên hành này.

“Ái này, cái gì làm nhân, cái gì là tập khởi; cái gì sanh, cái gì chuyển? Ái này lấy thọ làm nhân, thọ là tập khởi; do thọ sanh, do thọ chuyển.

“Thọ này, cái gì làm nhân, cái gì là tập khởi; cái gì sanh, cái gì chuyển? Thọ này lấy xúc làm nhân, xúc là tập khởi; do xúc sanh, do xúc chuyển.

“Xúc này, cái gì làm nhân, cái gì là tập khởi; cái gì sanh, cái gì chuyển? Xúc này lấy sáu nhập xứ làm nhân, sáu nhập xứ là tập khởi; do sáu nhập xứ sanh, do sáu lục nhập xứ chuyển.

“Sáu nhập xứ này là pháp hữu vi vô thường, là pháp duyên khởi của tâm; xúc thọ, hành thọ này cũng là pháp hữu vi vô thường, là pháp duyên khởi của tâm [167].

“Người nào đã quán sát như vậy mà còn thấy sắc là ngã; hay không thấy sắc là ngã mà còn thấy sắc là ngã sở; hay không thấy sắc ngã sở mà còn thấy sắc ở trong ngã; hay không còn thấy sắc ở trong ngã mà thấy ngã ở trong sắc; hay không thấy ngã ở trong sắc mà còn thấy thọ là ngã; hay không thấy thọ là ngã mà còn thấy thọ là ngã sở; hay không thấy thọ là ngã sở mà còn thấy thọ ở trong ngã; hay không thấy thọ ở trong ngã mà còn thấy ngã ở trong thọ; hay không thấy ngã ở trong thọ mà còn thấy tưởng là ngã; hay không còn thấy tưởng là ngã mà còn thấy tưởng là ngã sở; hay không thấy tưởng ngã sở mà còn thấy tưởng ở trong ngã; hay không thấy tưởng ở trong ngã mà còn thấy ngã ở trong tưởng; hay không thấy ngã ở trong tưởng [14b] mà còn thấy hành là ngã; hay không thấy hành là ngã mà còn thấy hành là ngã sở; hay không thấy hành là ngã sở mà còn thấy hành ở trong ngã; hay không thấy hành ở trong ngã mà còn thấy ngã ở trong hành; hay không thấy ngã ở trong hành mà còn thấy thức là ngã; hay không thấy thức là ngã mà còn thấy thức là ngã sở; hay không còn thấy thức là ngã sở mà còn thấy thức ở trong ngã; hay không thấy thức ở trong ngã mà còn thấy ngã ở trong thức; hay không thấy ngã ở trong thức mà lại khởi lên đoạn kiến, hoại hữu [168] kiến; hay không khởi đoạn kiến, hoại hữu kiến, nhưng không xa lìa ngã mạn. Người nào không xa lìa ngã mạn, thì lại thấy ngã. Thấy ngã, đó là hành. Hành này, cái gì làm nhân, cái gì là tập khởi; cái gì sanh, cái gì chuyển? Như trước đã nói, cho đến, ngã mạn.

“Người nào biết như vậy, thấy như vậy, nhanh chóng chứng đắc lậu tận.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 104. UẨN CĂN [169]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại giảng đường Lộc-mẫu, Đông viên, nước Xá-Vệ. Bấy giờ, vào buổi chiều, sau khi từ thiền tịnh dậy [170], Thế Tôn đến trước các Tỳ-kheo, trải tòa ngồi, và bảo các Tỳ-kheo:

“Có năm thủ uẩn. Những gì là năm? Sắc thủ uẩn, thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn.”

Bấy giờ, có một Tỳ-kheo từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, trịch áo vai bên hữu, quỳ gối sát đất, chấp tay bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, có phải đây là năm thủ uẩn; sắc thủ uẩn, thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn?”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Hãy trở lại chỗ ngồi mà hỏi. Ta sẽ vì ngươi mà nói.”

Tỳ-kheo kia sau khi lạy Phật rồi trở lại chỗ ngồi của mình, bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, năm thủ uẩn này, lấy gì làm gốc, do gì tập khởi, do cái gì mà sanh, do cái gì mà xúc [171]?

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Năm thủ uẩn này, lấy dục làm gốc, do dục tập khởi, vì dục sanh, vì dục mà xúc.”

Khi Tỳ-kheo kia nghe những gì đức Phật vừa nói, hoan hỷ tùy hỷ. Lại [172] bạch Phật rằng:

“Thế Tôn đã vì chúng con nói, năm uẩn là thủ [173]. Lành thay, những gì đã được nói! Nay con xin hỏi lại. Bạch Thế Tôn, uẩn là thủ hay năm uẩn khác thủ?”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Chẳng phải năm uẩn là thủ, cũng chẳng phải năm uẩn khác thủ. Ở nơi nào mà có dục tham, thì đó là năm thủ uẩn. [174]”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Lành thay, Thế Tôn! Hoan hỷ, tùy hỷ. Con xin hỏi nữa. [175] Có hai uẩn tương quan [176] chăng?”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Đúng vậy! đúng vậy! Cũng như có một người suy nghĩ như vầy: ‘Ta ở [14c] đời vị lai sẽ được sắc như vậy, thọ như vậy, tưởng như vậy, hành như vậy, thức như vậy.’ Đó gọi là uẩn uẩn tương quan.”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Lành thay! những gì đã được nói. Hoan hỷ, tùy hỷ. Con xin hỏi nữa. [177]  Bạch Thế Tôn, thế nào gọi là uẩn? [178]”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Những gì sắc, hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần, tất cả chúng gọi chung là uẩn. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Như vậy, này Tỳ-kheo, đó gọi là uẩn.”

 [179]Tỳ-kheo bạch Phật:

“Lành thay! những gì đã được nói. Hoan hỷ, tùy hỷ. Con xin hỏi nữa. Bạch Thế Tôn, do nhân gì, duyên gì mà gọi là sắc uẩn? Do nhân gì, duyên gì mà gọi thọ, tưởng, hành, thức uẩn?”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Bốn đại là nhân, bốn đại là duyên; đó gọi là sắc uẩn. Vì sao? Những gì thuộc về sắc uẩn, tất cả những cái đó đều là bốn đại, được tác thành do duyên bốn đại. Xúc là nhân, xúc là duyên sanh ra thọ, tưởng, hành; cho nên gọi là thọ, tưởng, hành uẩn. Vì sao? Nếu những gì thuộc về thọ, tưởng, hành, thì tất cả chúng đều lấy xúc làm duyên. Danh sắc là nhân, danh sắc là duyên, đó gọi là thức uẩn. Vì sao? Nếu những gì thuộc về thức, thì tất cả chúng đều lấy danh sắc làm duyên.”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Lành thay! những gì đã được nói. Hoan hỷ, tùy hỷ. Con xin hỏi nữa. [180] Thế nào là vị ngọt của sắc? Thế nào là sự tai hại của sắc? Thế nào là sự xuất ly sắc? Thế nào là vị ngọt của thọ, tưởng, hành, thức? Thế nào là sự tai hại của thức? Thế nào là sự xuất ly của thức?”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Hỷ lạc duyên vào sắc sanh ra, đó gọi là vị ngọt của sắc. Sắc là vô thường, khổ, là pháp biến dịch, đó gọi là sự tai hại của sắc. Đối với sắc mà điều phục dục tham, đoạn trừ dục tham, vượt qua khỏi dục tham, đó gọi là sự xuất ly sắc. Hỷ lạc duyên vào thọ, tưởng, hành, thức sanh ra, đó gọi là vị ngọt của thức. Thọ, tưởng, hành, thức là pháp vô thường, khổ, biến dịch, thì đó gọi là sự tai hại của thức. Đối với thọ, tưởng, hành, thức mà điều phục được dục tham, đoạn trừ được dục tham, vượt qua khỏi dục tham, thì đó gọi là sự xuất ly thức.

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Lành thay! những gì đã được. Hoan hỷ, tùy hỷ. Con xin hỏi nữa. [181] Từ cái gì sanh ra ngã mạn [182]?”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Phàm phu ngu si không học, ở nơi sắc thấy là ngã, là khác ngã, hay ở trong nhau. Đối với thọ, tưởng, [15a] hành, thức là ngã, là khác ngã, hay ở trong nhau. Từ đây sanh ra ngã mạn.”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Lành thay! những gì đã được nói. Hoan hỷ, tùy hỷ. Con xin hỏi nữa. [183] Bạch Thế Tôn, làm thế nào để đạt được không ngã mạn?”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Đa văn Thánh đệ tử ở nơi sắc không thấy là ngã, là khác ngã, là ở trong nhau. Ở nơi thọ, tưởng, hành, thức cũng không thấy là ngã, là khác ngã, là ở trong nhau.”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Lành thay! những gì đã được nói. Hoan hỷ, tùy hỷ. Con xin hỏi nữa. [184] Biết cái gì, cái gì nhanh chóng [185] chứng đắc lậu tận?”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần, tất cả chúng đều chẳng phải là ngã, không khác ngã, không ở trong nhau. VÀ thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Tỳ-kheo, biết như vậy, thấy như vậy, nhanh chóng chứng đắc lậu tận.”

Bấy giờ, trong chúng lại có một vị Tỳ-kheo khác căn trí đần độn, không hiểu biết, vì vô minh che lấp, nên khởi tà kiến ác, nghĩ rằng: “Nếu vô ngã, tạo nghiệp vô ngã, vậy thì ai là người sẽ chịu quả báo trong đời vị lai?”

Bấy giờ, đức Thế Tôn biết những ý nghĩ trong tâm của vị Tỳ-kheo kia, liền bảo các Tỳ-kheo:

“Ở trong chúng này, có người ngu si, vô trí, vô minh nghĩ rằng: ‘Nếu sắc là vô ngã, thọ, tưởng, hành, thức là vô ngã, tạo nghiệp vô ngã, thì ai là người sẽ nhận quả báo?’ Những điều nghi ngờ như vậy, trước đây Ta đã giải thích. Thế nào Tỳ-kheo, sắc là thường hay vô thường?”

Đáp: “Bạch Thế Tôn, vô thường.”

Hỏi: “Vô thường, là khổ chăng?”

Đáp: “Bạch Thế Tôn, là khổ.”

Hỏi: “Vô thường, khổ, là pháp biến dịch, vậy đa văn Thánh đệ tử có nên ở trong đó thấy là ngã, khác ngã, ở trong nhau không?”

Đáp: “Bạch Thế Tôn, không.”

“Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Cho nên, này các Tỳ-kheo, những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả chúng đều chẳng phải là ngã, chẳng phải những gì thuộc về ngã, người thấy như vậy được gọi là thấy đúng. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Đa văn Thánh đệ tử quán như vậy, thì liền tu tập tâm nhàm chán. Đã nhàm chán rồi, thì ly dục. Do ly dục mà giải thoát, giải thoát tri kiến, biết rằng, ‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Khi Phật nói kinh này xong, phần nhiều các Tỳ-kheo không khởi lên các lậu, tâm được giải thoát.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan [15b] hỷ phụng hành. [186]  

Kệ tóm tắt

Ấm căn, uẩn tức thọ,

Hai uẩn cùng tương quan,

Danh tự, nhân, hai vị,

Ngã mạn, chóng lậu tận.

KINH 105. SAI-MA [187]

 [29c6] Tôi nghe như vầy:

Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di [188]. Lúc ấy cũng ở nước Câu-xá-di tại vườn Bạt-đà-lê [189] có Tỳ-kheo Sai-ma [190] thân mang trọng bệnh. Bấy giờ, Tỳ-kheo Đà-sa [191] là người nuôi bệnh. Tỳ-kheo Đà-sa đến chỗ các Tỳ-kheo Thượng tọa, lễ sát chân các Tỳ-kheo Thượng tọa rồi đứng sang một bên. Các Tỳ-kheo Thượng tọa bảo Tỳ-kheo Đà-sa rằng:

“Thầy trở về chỗ Tỳ-kheo Sai-ma nói rằng: ‘Các Thượng tọa hỏi thăm thầy, thân thể có an ổn chút nào không? Đau đớn không tăng lắm chăng?’”

Tỳ-kheo Đà-sa vâng lời các Tỳ-kheo Thượng tọa, trở về chỗ Tỳ-kheo Sai-ma, nói với Tỳ-kheo Sai-ma rằng: “Các Thượng tọa hỏi thăm thầy, thân thể có an ổn chút nào không? Đau đớn không tăng lắm chăng?”

Tỳ-kheo Sai-ma nói với Tỳ-kheo Đà-sa rằng:

“Bệnh của tôi không bớt. Thân không được an ổn. Các thứ khổ bức bách càng tăng thêm, không cứu nổi. Giống như người có nhiều sức mạnh bắt lấy người gầy yếu đuối, dùng dây trói chặt vào đầu cùng hai tay, rồi siết chặt làm cho đau đớn vô cùng. Hiện tại sự thống khổ của tôi còn hơn cả người kia nữa. Giống như tên đồ tể dùng dao bén mổ bụng bò lấy nội tạng nó ra; sự đau đớn bụng con bò như thế nào còn có thể chịu nổi, còn hiện tại sự đau đớn bụng của tôi, hơn cả sự đau của con bò kia. Như hai lực sĩ bắt một người yếu đuối treo lên trên lửa rồi đốt hai chân họ, hiện nay hai chân của tôi còn nóng hơn người kia.”

Bấy giờ, Tỳ-kheo Đà-sa đến lại chỗ các Thượng tọa, đem những lời đã nói về bệnh trạng của Tỳ-kheo Sai-ma bạch lại đầy đủ cho các Thượng tọa. Các Thượng tọa lại sai Tỳ-kheo Đà-sa trở về chỗ Tỳ-kheo Sai-ma, và nói với Tỳ-kheo Sai-ma rằng: “Đức Thế Tôn đã dạy có năm thủ uẩn, đó là: Sắc thủ uẩn, thọ, tưởng, hành, thức thủ uẩn. Tỳ-kheo Sai-ma, thầy có thể quán sát một chút về năm thủ uẩn này, không phải ngã, không phải ngã sở, được không?”

Tỳ-kheo Đà-sa vâng lời các Tỳ-kheo Thượng tọa dạy rồi trở về nói với Tỳ-kheo Sai-ma rằng:

“Các Thượng tọa nhắn lại thầy là: ‘Thế Tôn [30a] đã từng dạy năm thủ uẩn, thầy có thể quán sát một chút, không phải ngã, không ngã sở được không?’”

Tỳ-kheo Sai-ma nói với Tỳ-kheo Đà-sa rằng:

“Đối với năm thủ uẩn này, tôi có thể quán sát không phải ngã, không phải ngã sở.”

Tỳ-kheo Đà-sa trở lại bạch với các Thượng tọa rằng:

“Tỳ-kheo Sai-ma nói, ‘Đối với năm thủ uẩn này, tôi có thể quán sát không phải ngã, không phải ngã sở.’”

Các Tỳ-kheo Thượng tọa lại sai Tỳ-kheo Đà-sa nói với Tỳ-kheo Sai-ma rằng: “Thầy có thể đối với năm thủ uẩn quán sát không phải ngã, không phải những gì thuộc về ngã như các bậc A-la-hán đã đoạn tận các lậu hoặc được không?”

Tỳ-kheo Đà-sa vâng lời các Tỳ-kheo Thượng tọa dạy, lại đến chỗ Tỳ-kheo Sai-ma, nói với Sai-ma rằng: “Thầy có thể quán sát năm thủ uẩn như các bậc A-la-hán đã đoạn tận các lậu hoặc được không?”

Tỳ-kheo Sai-ma nói với Tỳ-kheo Đà-sa rằng:

“Tôi có thể quán sát năm thủ uẩn là không phải ngã, không phải ngã sở được; nhưng chẳng phải là A-la-hán đã đoạn tận lậu hoặc.”

Tỳ-kheo Đà-sa trở lại chỗ các Thượng tọa, bạch với các Thượng tọa, “Tỳ-kheo Sai-ma nói, ‘Tôi có thể quán sát năm thủ uẩn là không phải ngã, không phải ngã sở được; nhưng chẳng phải là A-la-hán đã đoạn tận lậu hoặc.’”

Bây giờ, các Thượng tọa bảo Tỳ-kheo Đà-sa: “Ngươi hãy trở về nói với Tỳ-kheo Sai-ma, ‘Thầy nói là thầy quán sát năm thủ uẩn không phải là ngã, không phải là ngã sở, nhưng chẳng phải là A-la-hán đã đoạn tận lậu hoặc. Trước sau mâu thuẫn nhau.’”

Tỳ-kheo Đà-sa lại vâng lời dạy các Thượng tọa, đến nói với Tỳ-kheo Sai-ma là: “Thầy nói là Thầy quán sát năm thủ uẩn không phải là ngã, không phải là ngã sở, nhưng chẳng phải là A-la-hán đã đoạn tận lậu hoặc. Trước sau mâu thuẫn nhau.”

Tỳ-kheo Sai-ma nói với Tỳ-kheo Đà-sa rằng:

“Đối với năm thủ uẩn tôi quán sát không phải là ngã, không phải là ngã sở. Nhưng chẳng phải là A-la-hán. Vì đối với ngã mạn, ngã dục, ngã sử, tôi chưa đoạn hết, chưa biết rõ, chưa xả ly, chưa nhàm tởm, chưa nhổ ra hết.” [192]

Tỳ-kheo Đà-sa trở lại chỗ các Thượng tọa, bạch với các Thượng tọa, là Tỳ-kheo Sai-ma xin thưa rằng: “Đối với năm thủ uẩn Tôi quán sát không phải là ngã, không phải là ngã sở. Nhưng chẳng phải là A-la-hán. Vì đối với ngã mạn, ngã dục, ngã sử, tôi chưa đoạn hết, chưa biết rõ, chưa xả ly, chưa nhàm tởm, chưa nhổ ra hết.”

Các Thượng tọa lại sai Tỳ-kheo Đà-sa nói với Tỳ-kheo Sai-ma rằng:

“Thầy nói có tôi. Vậy thì ở nơi nào có tôi? Sắc là tôi hay tôi khác sắc? Thọ, tưởng, hành, thức là tôi hay tôi khác thức?” [193]

Tỳ-kheo Sai-ma nói với Tỳ-kheo Đà-sa rằng:

“Tôi không nói sắc là tôi hay tôi khác sắc; thọ, tưởng, hành, thức [30b] là tôi hay tôi khác thức. Nhưng đối với năm thủ uẩn, ngã mạn, ngã dục, ngã sử tôi chưa đoạn hết, chưa biết rõ, chưa xa lìa, chưa nhàm tởm, chưa nhổ ra hết.”

Tỳ-kheo Sai-ma nói với Tỳ-kheo Đà-sa rằng:

“Sao dám làm phiền Thầy phải chạy qua chạy lại! Thầy mang giùm cây gậy đến đây, tôi sẽ tự chống gậy đến các Thượng tọa kia. Xin trao gậy cho tôi.”

Tỳ-kheo Sai-ma liền tự chống gậy đi đến chỗ các Thượng tọa. Từ xa các Thượng tọa nhìn thấy Tỳ-kheo Sai-ma chống gậy đi lại, họ liền trải tòa, sửa ghế ngồi, đích thân ra nghinh tiếp, vì thầy mang giúp y bát, và mời ngồi, cùng thăm hỏi sức khỏe nhau, rồi các Thượng tọa nói với Tỳ-kheo Sai-ma rằng:

“Thầy nói tôi có [194]; vậy chỗ nào thấy tôi? [195] Sắc là ngã chăng? Tôi khác sắc chăng? Thọ, tưởng, hành, thức là ngã chăng? Tôi khác thức chăng?”

Tỳ-kheo Sai-ma bạch rằng:

“Chẳng phải sắc là ngã, chẳng phải ngã khác sắc; chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức là ngã, chẳng phải ngã khác thức. Nhưng đối với năm thủ uẩn, ngã mạn, ngã dục, ngã sử tôi có thể chưa đoạn hết, chưa có thể biết rõ, chưa có thể xa lìa, chưa nhàm tởm, chưa nhổ ra hết.

“Giống như hương thơm của hoa ưu-bát-la, bát-đàm-ma, câu-mâu-đầu, phân-đà-lợi, có phải là mùi hương của rễ? hay hương khác rễ; là mùi hương tinh thô của thân, lá, cuống? là mùi hương khác tinh thô? hay là tất cả những thứ đó chăng?”

Các Thượng tọa đáp rằng:

“Không phải đâu, Tỳ-kheo Sai-ma, chẳng phải rễ của hoa ưu-bát-la, bát-đàm-ma, câu-mâu-đầu, phân-đà-lợi, là mùi hương, và chẳng phải mùi hương khác rễ; cũng chẳng phải thân, lá, cuống, tinh thô là mùi hương; cũng chẳng phải mùi hương khác tinh thô.”

Tỳ-kheo Sai-ma lại hỏi:

“Vậy đó là những thứ hương gì?”

Các Thượng tọa đáp rằng:

“Là mùi hương của hoa.”

Tỳ-kheo Sai-ma lại nói:

“Vậy thì ngã cũng như vậy. Chẳng phải sắc là ngã, ngã không lìa sắc; chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức là ngã, ngã không lìa thức; nhưng đối với năm thủ uẩn, tôi thấy không phải ngã, không phải ngã sở, mà đối với ngã mạn, ngã dục, ngã sử tôi chưa đoạn hết, chưa biết rõ, chưa xa lìa, chưa nhàm tởm, chưa nhổ ra hết. Các Thượng tọa hãy nghe tôi nói thí dụ, vì người trí nhờ thí dụ mà được hiểu rõ. Giống như chiếc áo của người nhũ mẫu giao cho người giặt. Họ giặt bằng nước tro, tuy có sạch bụi nhơ, nhưng vẫn còn có mùi. Nếu muốn hết mùi này thì cần phải dùng các thứ hương thơm xông ướp. Cũng vậy, đa văn Thánh đệ tử xa lìa năm thủ uẩn, quán sát chân chánh rằng không phải ngã, không phải ngã sở, có thể đối với năm thủ uẩn, ngã mạn, ngã dục, ngã sử chưa đoạn hết, chưa biết rõ, chưa xa lìa, chưa nhàm chán, nhưng đối với năm thủ uẩn sau đó vị ấy tư duy thêm nữa, [30c] quán sát sự sanh diệt của chúng, rằng: ‘Đây là sắc; Đây là sự tập khởi của sắc này, Đây là sự diệt tận của sắc này. Đây là thọ, tưởng, hành, thức này, Đây là sự tập khởi... thức này, và sự đoạn tận của... thức này cũng như vậy. Đối với năm thủ uẩn khi đã quán sát sự sanh diệt của chúng như vậy rồi, thì ngã mạn, ngã dục, ngã sử, tất cả đều được tiêu trừ. Đó gọi là quán sát chân chánh chân thật.”

Khi Tỳ-kheo Sai-ma nói pháp này, các vị Thượng tọa xa lìa được trần cấu, được mắt pháp trong sạch. Tỳ-kheo Sai-ma nhờ không khởi các lậu hoặc, nên tâm được giải thoát; vì được an vui lợi ích nơi chánh pháp nên những bệnh của thân tất cả đều được tiêu trừ.

Bấy giờ, các Thượng tọa nói với Tỳ-kheo Sai-ma rằng:

“Lần đầu chúng tôi được nghe những gì Nhân giả nói đã hiểu rõ và mừng vui, huống chi là được lại nhiều lần. Sở dĩ chúng tôi hỏi nhiều là vì muốn phát khởi biện tài vi diệu của Nhân giả, chứ không phải có ý nhiễu loạn. Nhân giả là người có khả năng nói rộng chánh pháp của Như lai, Ứng cúng, Đẳng Chánh Giác.”

Sau khi các Thượng tọa nghe những gì mà Tỳ-kheo Sai-ma nói xong, tất cả đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 106 DIỆM-MA-Ca [196]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo tên là Diệm-ma-ca [197] khởi tà kiến ác nói rằng: “Theo chỗ hiểu của tôi về những pháp mà Phật đã thuyết giảng, thì vị A-la-hán lậu tận, sau khi thân hoại mạng chung sẽ không còn gì nữa.”

Lúc ấy, có số đông Tỳ-kheo nghe những lời này, liền đến đó nói với Tỳ-kheo Diệm-ma-ca rằng:

“Có thật Thầy đã nói: ‘Theo chỗ hiểu của tôi về những pháp mà Phật đã thuyết giảng, thì vị A-la-hán lậu tận, sau khi thân hoại mạng chung sẽ không còn gì nữa’?”

Đáp rằng:

“Thưa các Tôn giả, thật sự như vậy.”

Các Tỳ-kheo nói với Diệm-ma-ca:

“Chớ nên hủy báng Thế Tôn, hủy báng Thế Tôn là không tốt. Thế Tôn không hề nói những lời này. Thầy nên từ bỏ tà kiến ác này đi.”

Khi các Tỳ-kheo đã nói những lời này rồi, mà Tỳ-kheo Diệm-ma-ca vẫn còn ôm chặt tà kiến ác này, lại nói như vầy:

“Thưa các Tôn giả, chỉ có đây mới là sự thật. Nếu khác đi, đó là giả dối.”

Thầy nói ba lần như vậy.

Khi các Tỳ-kheo không thể khuất phục được Tỳ-kheo Diệm-ma-ca, liền bỏ ra đi, đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất, thưa Tôn giả Xá-lợi-phất rằng:

“Tôn giả biết cho, Tỳ-kheo Diệm-ma-ca kia đã khởi lên tà kiến ác nói như vầy: ‘Theo chỗ hiểu của tôi về những pháp mà Phật đã thuyết giảng, thì vị A-la-hán lậu tận, sau khi thân họai mạng chung sẽ không còn gì nữa.’ Chúng tôi đã nghe những lời nói này, nên đến hỏi Tỳ-kheo Diệm-ma-ca, có thật Thầy đã nói: ‘Theo chỗ hiểu của tôi về những pháp mà Phật đã thuyết giảng, thì vị A-la-hán lậu tận, sau khi thân hoại mạng chung sẽ không còn gì nữa?’ Thầy đáp, ‘Thưa các Tôn giả, chỉ có đây mới là sự thật, ngoài ra là lời ngu dốt.’ Chúng [31a] tôi liền bảo rằng: ‘Chớ nên hủy báng Thế Tôn, hủy báng Thế Tôn là không tốt. Thế Tôn không hề nói những lời này. Thầy nên từ bỏ tà kiến ác này đi.’ Qua ba lần can gián, Thầy vẫn ôm chặt tà kiến ác mà không bỏ, nên nay chúng tôi đến chỗ Tôn giả, xin Tôn giả thương xót Tỳ-kheo Diệm-ma-ca, hãy làm cho Thầy dứt bỏ tà kiến ác.”

Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

“Vâng, tôi sẽ làm cho Thầy này dứt bỏ tà kiến ác.”

Sau khi nghe những lời Tôn giả Xá-lợi-phất nói rồi, số đông Tỳ-kheo tùy hỷ vui mừng, trở về chỗ ở của mình.

Bấy giờ, vào buổi sáng sớm, Tôn giả Xá-lợi-phất đắp y mang bát vào thành Xá-vệ khất thực. Ăn xong, ngài ra khỏi thành, trở về tinh xá cất y bát, rồi đến chỗ Tỳ-kheo Diệm-ma-ca.

Tỳ-kheo Diệm-ma-ca từ xa trông thấy Tôn giả Xá-lợi-phất đến, liền trải tòa, chuẩn bị nước rửa chân, sắp đặt ghế ngồi, ân cần nghinh tiếp, mang giúp y bát rồi mời ngồi. Sau khi Tôn giả Xa-lợi-phất vào chỗ ngồi và rửa chân xong, nói với Tỳ-kheo Diệm-ma-ca:

“Có thật Thầy đã nói: ‘Theo chỗ hiểu của tôi về những pháp mà Phật đã thuyết giảng, thì vị A-la-hán lậu tận, sau khi thân họai mạng chung sẽ không còn gì nữa?’”

Tỳ-kheo Diệm-ma-ca bạch Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, thật sự là như vậy.”

Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

“Bây giờ tôi hỏi Thầy, cứ theo ý Thầy mà đáp cho tôi. Thế nào, Diệm-ma-ca, sắc là thường hay là vô thường?”

Đáp:

“Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, là vô thường.”

Lại hỏi:

“Nếu là vô thường, thì là khổ chăng?”

Đáp:

“Là khổ.”

Lại hỏi:

“Nếu vô thường, khổ, là pháp biến dịch. Vậy đa văn Thánh đệ tử

ở trong đó có thấy ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”

Đáp:

“Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, không.”

Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.

Lại hỏi:

“Thế nào Diệm-ma-ca, sắc là Như lai chăng?”

Đáp:

“Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, không.”

Lại hỏi:

“Thế nào, Diệm-ma-ca, khác sắc là Như lai chăng? Khác thọ, tưởng, hành, thức là Như lai chăng?”

Đáp:

“Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, không.”

Lại hỏi:

“Như lai có ở trong sắc chăng [198]? Như lai có ở trong thọ, tưởng, hành, thức chăng?”

Đáp:

“Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, không.”

Lại hỏi:

“Sắc ở trong Như lai chăng? Thọ, tưởng, hành, thức ở trong Như lai chăng?”

Đáp:

“Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, không.”

Lại hỏi:

“Phi sắc, thọ, tưởng, hành, thức [199] là Như lai chăng?”

Đáp:

“Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, không.” [31b]

“Như vậy, này Diệm-ma-ca, Như lai ngay trong hiện tại này là chân thật, như thật, thường trú, không thể nắm bắt, không thể giả thiết; [200] sao Thầy lại có thể nói, ‘Theo chỗ hiểu của tôi về những pháp mà Phật đã thuyết giảng, thì vị A-la-hán lậu tận, sau khi thân hoại mạng chung sẽ không còn gì nữa’? Nói như vậy đúng thời chăng”

Đáp:

“Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, không.”

Lại hỏi:

“Này Diệm-ma-ca, trước đây Thầy nói: ‘Theo chỗ hiểu của tôi về những pháp mà Phật đã thuyết giảng, thì vị A-la-hán lậu tận, sau khi thân hoại mạng chung sẽ không còn gì nữa.’ Tại sao nay lại nói là không phải?”

Tỳ-kheo Diệm-ma-ca nói:

“Trước đây, vì vô minh tôi không hiểu, nên có tà kiến ác như vậy. Nay tôi đã nghe Tôn giả Xá-lợi-phất nói rồi, nên những gì không hiểu do vô minh, tất cả đều dứt sạch.”

Lại hỏi:

“Nếu lại được hỏi: ‘Tỳ-kheo, tuyên bố tà kiến ác trước đây, nay do biết gì, thấy gì, mà tất cả đều bị loại bỏ?’ Thầy sẽ đáp như thế nào?”

Diệm-ma-ca đáp:

“Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, nếu có người đến hỏi thì tôi sẽ đáp như vầy, ‘A-la-hán lậu tận, sắc là vô thường; vô thường là khổ. Khổ dứt thì vắng lặng, mát mẻ, lặng im. [201] Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.’ Nếu có người nào đến hỏi thì tôi sẽ đáp như vậy.”

Xá-lợi-phất nói:

“Lành thay! lành thay, Tỳ-kheo Diệm-ma-ca! Thầy nên đáp như vậy. Vì sao? A-la-hán mà lậu đã hết, thấy sắc là vô thường. Cái gì vô thường, cái đó là khổ. Nếu vô thường, là khổ, đó là pháp sanh diệt. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.”

Sau khi Tôn giả Xá-lợi-phất nói pháp này, Tỳ-kheo Diệm-ma-ca xa lìa trần cấu, được mắt pháp trong sạch. Tôn giả Xá-lợi-phất nói với Tỳ-kheo Diệm-ma-ca:

“Nay tôi sẽ nói thí dụ, mà người trí nhờ thí dụ thì sẽ hiểu rõ được. Thí như một trưởng giả, hay con một trưởng giả giàu có, nhiều của cải, rất mong được nhiều người giúp việc để khéo giữ gìn tài sản của họ. Lúc ấy có kẻ thù độc ác, giả đến gần gũi giúp đỡ, và xin làm tôi tớ, luôn luôn dò xét việc ngủ nghỉ sớm muộn của chủ nhân, mà nhân đó hầu hạ hai bên, kính cẩn phục vụ họ; luôn thuận theo lời chủ, khiến chủ nhân vừa lòng, xem như bạn thân, tưởng như con cháu, rất tin tưởng, không nghi ngờ, nên không bao giờ tự đề phòng giữ gìn. Sau đó tên này dùng dao bén, giết chết người chủ.

“Này Tỳ-kheo Diệm-ma-ca, thầy nghĩ thế nào về kẻ thù độc ác kia, bạn thân trưởng giả ấy, đó chẳng phải là phương tiện ban đầu, với tâm hại luôn luôn dò xét tìm cơ hội, để dẫn đến cái chung cuộc đối với người chủ sao? Trong khi trưởng giả không hay biết gì về cái hậu quả tai hại mà mình phải gánh chịu hôm nay.”

Đáp:

“Thật như vậy.”

Tôn giả [31c] Xá-lợi-phất bảo Tỳ-kheo Diệm-ma-ca:

“Thầy nghĩ thế nào về trưởng giả này, nếu biết người kia giả làm người thân để ám hại, ông ta đã khéo tự đề phòng giữ gìn, và sẽ không bị làm hại phải không?”

Đáp:

“Đúng vậy.”

Tôn giả Xá-lợi-phất bảo:

“Cũng vậy, Tỳ-kheo Diệm-ma-ca, kẻ phàm phu ngu si không học, đối với năm thủ uẩn tưởng là thường, tưởng là an ổn, tưởng là không bệnh, tưởng là ngã, tưởng là ngã sở. Đối với năm thủ uẩn này giữ gìn, nuối tiếc, cuối cùng thì cũng bị năm thủ uẩn oan gia này làm hại, như trưởng giả kia bị kẻ oan gia, giả làm người thân hại đi mà không hay biết.

“Này Diệm-ma-ca, đa văn Thánh đệ tử đối với năm thủ uẩn này phải quán sát như bệnh, như ung nhọt, như gai nhọn, như sát hại; là vô thường, khổ, không, chẳng phải ngã, chẳng phải ngã sở. Đối với năm thủ uẩn này vị ấy không thọ lãnh, không đắm trước. Vì không thọ lãnh nên không đắm trước, vì không đắm trước nên tự giác ngộ Niết-bàn: tự biết ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Khi Tôn giả Xá-lợi-phất nói bài pháp này, Tỳ-kheo Diệm-ma-ca không khởi các lậu hoặc, tâm được giải thoát. Tôn giả Xá-lợi-phất vì Tỳ-kheo Diệm-ma-ca nói pháp sáng soi, chỉ bày làm cho vui vẻ rồi, từ chỗ ngồi đứng dậy ra đi.

KINH 107. TIÊN-Ni [202]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn trúc Ca-lan-đà, tại thành Vương-xá.

Bấy giờ có một ngoại đạo xuất gia tên là Tiên-ni [203] đi đến chỗ Phật cung kính thăm hỏi, rồi ngồi qua một bên bạch Phật:

“Ngày hôm qua, có các Sa-môn, Bà-la-môn, Giá-la-ca [204], cùng nhau tập trung tại giảng đường Hy hữu [205], khen ngợi như vầy: ‘Phú-lan-na Ca-diếp [206], là người lãnh đạo đồ chúng, có năm trăm đệ tử đang vây quanh trước sau. Trong số họ có người cực thông minh, có người đần độn, nhưng đến khi họ chết đi, không được xác nhận [207] là họ sẽ tái sanh ở đâu. Lại có Mạc-ca-lê Cù-xá-lợi Tử [208] là người lãnh đạo đồ chúng, có năm trăm đệ tử đang vây quanh trước sau. Trong số họ có người cực thông minh, có người đần độn, nhưng đến khi họ chết đi, không được xác nhận là họ sẽ tái sanh ở đâu. Cũng vậy, Tiên-xà-na-tỳ-la-chi Tử, A-kỳ-đa Xí-xá-khâm-bà-la, Ca-la-câu-đà Ca-chiên-diên, Ni-kiền-đà-nhã-đề Tử [209] v.v… mỗi người đều có năm trăm đệ tử vây quanh trước sau, như đã nói trên.’

“Sa-môn Cù-đàm lúc bấy giờ cũng được thảo luận trong đó, rằng: ‘Sa-môn Cù-đàm là thủ lãnh của đại chúng. Trong số đệ tử của Ngài nếu có ai mạng chung thì liền được ghi nhận là sẽ sanh vào chỗ này, [32a] sẽ sanh vào nơi kia. ‘Trước đây tôi có sanh nghi, vì sao Sa-môn Cù-đàm đạt được pháp như vậy?’” [210]

Phật bảo Tiên-ni:

“Ông chớ sanh hoài nghi. Vì có mê lầm nên sanh ra nghi hoặc. [211] Tiên-ni nên biết, có ba hạng tôn sư. Những gì là ba? Có một hạng tôn sư thấy ngã chân thật tồn tại trong đời hiện tại, rồi theo chỗ biết ấy mà thuyết, nhưng không thể biết những việc sau khi chết. Đó là hạng thầy thứ nhất xuất hiện ở thế gian. Lại nữa, này Tiên-ni có một hạng tôn sư, thấy ngã chân thật tồn tại trong đời hiện tại, sau khi chết cũng thấy là ngã tồn tại, rồi theo chỗ biết ấy mà thuyết. Lại nữa, này Tiên-ni có một hạng tôn sư, không thấy đời hiện tại chân thật có ngã, sau khi mạng chung cũng lại không thấy chân thật có ngã. 

“Này Tiên-ni, hạng tôn sư thứ nhất thấy ngã chân thật tồn tại trong đời hiện tại, rồi theo chỗ biết ấy mà thuyết, đó gọi là đoạn kiến. Hạng tôn sư thứ hai, thấy đời hiện tại và đời vị lai chân thật có ngã, rồi theo chỗ biết ấy mà thuyết, thì đó gọi là thường kiến. Hạng tôn sư thứ ba, không thấy đời hiện tại chân thật có ngã, và sau khi chết cũng không thấy có ngã, đó là điều mà Như lai, Ứng Đẳng Chánh Giác nói, hiện tại cắt đứt ái, ly dục, diệt tận chứng Niết-bàn.”

Tiên-ni bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, tôi nghe những gì đức Thế Tôn nói mà càng thêm nghi ngờ.”

Phật bảo Tiên-ni:

“Càng nghi ngờ thêm là đúng. Vì sao? Vì đây chính là chỗ sâu xa khó thấy khó biết, cần phải quán chiếu sâu xa, vi diệu mới thấu đáo được. Chỉ có bậc thông tuệ mới hiểu rõ, còn loại chúng sanh thường tình thì chưa có khả năng biết được. Vì sao? Chúng sanh lâu đời có những kiến giải dị biệt, nhẫn thọ dị biệt, mong cầu dị biệt, những ước muốn dị biệt.”

Tiên-ni bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con đối với Thế Tôn có lòng tin thuần tịnh, xin đức Thế Tôn vì con mà nói pháp, để ngay nơi chỗ ngồi này tuệ nhãn của con được thanh tịnh.”

Phật bảo Tiên-ni:

“Nay Ta sẽ tùy thuộc vào chỗ ưa thích của Ông mà nói.”

Phật bảo Tiên-ni:

“Sắc là thường, hay là vô thường?”

Đáp:

“Là vô thường.”

Đức Thế Tôn lại hỏi:

“Này Tiên-ni, vô thường là khổ chăng?:

Đáp:

“Là khổ.”

Đức Thế Tôn lại hỏi Tiên-ni:

“Nếu vô thường, khổ, là pháp biến dịch, vậy đa văn Thánh đệ tử ở trong đó có thấy ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”

Đáp:

“Thưa Thế Tôn, không.”

“Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.”

Lại hỏi:

“Thế nào, Tiên-ni, sắc là Như lai chăng?”

Đáp:

“Thưa Thế Tôn, không.”

“Thọ, tưởng, hành, thức là Như lai chăng?”

“Thưa Thế Tôn, không.”

Lại hỏi Tiên-ni:

“Như lai [32b] khác sắc chăng? Như lai khác thọ, tưởng, hành, thức chăng?”

Đáp:

“Thưa Thế Tôn, không.”

Lại hỏi Tiên-ni:

“Như lai trong sắc chăng? Như lai trong thọ, tưởng, hành, thức chăng?”

Đáp:

“Thưa Thế Tôn, không.”

Lại hỏi Tiên-ni:

“Sắc trong Như lai chăng? Thọ, tưởng, hành, thức trong Như lai chăng?”

Đáp:

“Thưa Thế Tôn, không.”

Lại hỏi Tiên-ni:

“Phi sắc, phi thọ, tưởng, hành, thức là Như lai chăng?”

Đáp:

“Thưa Thế Tôn, không.”

Phật bảo Tiên-ni:

“Các đệ tử của Ta nghe những gì Ta đã nói mà không hiểu nghĩa lý để khởi hiện quán đối với mạn. [212] Vì phi hiện quán nên mạn không bị đoạn trừ. Vì không dứt trừ được mạn, nên khi bỏ uẩn này thì uẩn khác tiếp nối sinh. Do vậy, này Tiên-ni, Ta ký thuyết cho các đệ tử, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh vào chỗ này hay chỗ kia. Vì sao? Vì mạn còn sót lại.

“Này Tiên-ni, các đệ tử của Ta đối với những gì Ta đã nói mà có thể hiểu rõ, đối với các mạn mà đạt được hiện quán. Nhờ đạt được hiện quán nên các mạn dứt trừ; vì các mạn được dứt trừ nên sau khi thân hoại mạng chung sẽ không còn có tương tục. Này Tiên-ni, những người đệ tử này, Ta không bảo là họ khi bỏ uẩn này rồi, họ sẽ sinh vào chỗ này hay chỗ kia. Vì sao? Vì không có nhân duyên để có thể ký thuyết. Nếu muốn Ta ký thuyết, Ta sẽ ký thuyết rằng họ đã đoạn trừ các ái dục, vĩnh viễn xa lìa kết sử hữu, chân chánh tâm giải thoát, đoạn tận khổ biên. Từ xưa tới nay, và ngay trong hiện tại Ta thường nói mạn quá, mạn tập, mạn sanh, mạn khởi; nếu đối với mạn mà thường xuyên quán sát thì các khổ sẽ không sanh.”

Khi Phật nói pháp này, Tiên-ni Sa-môn ngọai đạo [213] xa lìa trần cấu, được mắt pháp trong sạch. Bấy giờ, Tiên-ni thấy pháp, đắc pháp, đoạn trừ các nghi hoặc, không do người khác mà biết, không do người khác để được độ thoát, ở trong chánh pháp, tâm đạt được vô sở úy. Ông từ chỗ ngồi đứng dậy chấp tay bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con có được phép ở trong chánh pháp xuất gia tu phạm hạnh không?”

Phật bảo Tiên-ni:

“Ông có thể xuất gia, thọ giới cụ túc, được làm Tỳ-kheo ở trong chánh pháp.”

Sau khi Tiên-ni đã được phép xuất gia rồi, một mình ở nơi vắng vẻ tu tập không buông lung, tự suy nghĩ về lý do thiện gia nam tử cạo bỏ râu tóc, chánh tín xuất gia học đạo, sống không gia đình, tu hành phạm hạnh, thấy pháp, tự biết đã chứng đắc, biết rằng ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’ Đã đạt được quả A-la-hán.

Sau khi đã nghe những gì đức Phật đã nói, [32c] hoan hỷ phụng hành.

KINH 108 A-NẬU-LA [214]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn trúc Ca-lan-đà, tại thành Vương-xá [215].

Bấy giờ có Tỳ-kheo tên là A-nậu-la-độ [216] ở núi Kỳ-xà-quật. Lúc ấy, có số đông người xuất gia ngoại đạo đi đến chỗ A-nậu-la-độ. Sau khi chào hỏi thăm nhau, họ ngồi sang một bên, và bạch với A-nậu-la-độ:

“Chúng tôi có điều muốn hỏi. Ngài có rảnh mà giải thích cho chúng tôi không?”

A-nậu-la-độ nói với các ngoại đạo:

“Tùy theo điều muốn hỏi, nếu biết tôi sẽ trả lời.”

Các ngoại đạo lại hỏi:

“Thế nào, Tôn giả, Như lai sau khi chết tồn tại chăng?”

A-nậu-la-độ nói:

“Như Thế Tôn đã nói, điều này thuộc vô ký [217].”

Lại hỏi:

“Như lai sau khi chết không tồn tại chăng?”

A-nậu-la-độ nói:

“Như Thế Tôn đã nói, điều này thuộc vô ký.”

Lại hỏi:

“Như lai sau khi chết tồn tại và không tồn tại; chẳng phải tồn tại, chẳng phải không tồn tại chăng?”

A-nậu-la-độ nói:

“Như Thế Tôn đã nói, điều này thuộc vô ký.”

Lại hỏi A-nậu-la-độ:

“Thế nào, Tôn giả, Như lai sau khi chết là tồn tại chăng? Bảo rằng vô ký. Như lai sau khi chết không tồn tại chăng? Bảo rằng vô ký. Như lai sau khi chết là cũng tồn tại, cũng không tồn tại; chẳng phải tồn tại, chẳng phải không tồn tại chăng? Bảo rằng vô ký. Thế nào, Tôn giả, Sa-môn Cù-đàm không biết, không thấy chăng?”

A-nậu-la-độ nói:

“Đức Thế Tôn chẳng phải không biết, chẳng phải không thấy.”

Bấy giờ, các ngọai đạo không vừa lòng về những gì mà Tôn giả A-nậu-la-độ đã nói, họ chỉ trích, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy ra về. Tôn giả A-nậu-la-độ chờ cho các ngọai đạo đi rồi, đến chỗ đức Phật đảnh lễ sát chân, rồi đứng sang một bên, đem những gì các ngoại đạo đã hỏi trình lên tất cả cho Phật:

“Bạch Thế Tôn, họ đã hỏi như vậy, và con đáp như vậy, nói như vậy có phù hợp với chánh pháp không? Con không mắc vào tội hủy báng Thế Tôn chứ? Là thuận theo pháp hay là trái với pháp? Không khiến cho những ai đến cật vấn để rơi vào chỗ đáng chỉ trách chăng?

Phật bảo A-nậu-la-độ:

“Nay Ta hỏi ngươi, theo những gì Ta hỏi mà trả lời. Này A-nậu-la-độ, sắc là thường hay là vô thường?”

Đáp:

“Là vô thường.”

“Thọ, tưởng, hành, thức là thường hay là vô thường?”

Đáp:

“Bạch Thế Tôn là vô thường.”

Nói chi tiết như kinh Diệm-ma-ca, cho đến, thức là Như lai chăng? Đáp là không.

Phật bảo A-nậu-la-độ:

“Nói như vậy là nói lời phù hợp, chẳng phải hủy báng Như lai, chẳng phải vượt qua thứ lớp, mà nó như [33a] những lời nói pháp theo thứ lớp của Như lai, không có một ai có thể đến mà cật vấn chê trách được. Vì sao? Vì đối với sắc Ta biết như thật về sắc, về sự tập khởi của sắc, về sự đoạn tận của sắc, về con đường đưa đến sự diệt tận của sắc. Này A-nậu-la-độ, nếu bỏ qua những điều Như lai giải thích [218] mà bảo là Như lai không biết, không thấy, thì đây chẳng phải là lời nói chính xác [219].”

Phật nói kinh này xong, A-nậu-la-độ nghe những gì đức Phật đã dạy, vui mừng thực hành theo.

KINH 109. TRƯỞNG GIẢ [220]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong rừng sâu Lộc-dã, tại núi Thiết-thủ-bà-la [221], thuộc nước Bà-kỳ [222], bấy giờ có trưởng giả Na-câu-la [223] đã một trăm hai mươi tuổi, già nua, các căn suy nhược, yếu đuối bệnh khổ mà vẫn muốn diện kiến đức Thế Tôn, cùng các Tỳ-kheo thân quen đáng kính trước đây. Ông đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân, rồi lui ngồi sanh một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, nay con đã già nua, yếu đuối, bệnh khổ, tự gắng sức đến yết kiến đức Thế Tôn cùng các vị Tỳ-kheo thân quen đáng kính trước đây. Xin đức Thế Tôn vì con mà nói pháp khiến cho con luôn luôn được an lạc.”

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo gia chủ Na-câu-la:

“Lành thay, Gia chủ! Thật sự Ông đã già nua, các căn suy nhược, yếu đuối bệnh hoạn, mà có thể tự mình đến diện kiến Như lai cùng các Tỳ-kheo thân quen đáng kính khác. Gia chủ nên biết ở nơi cái thân khổ hoạn này mà tu học thân không khổ hoạn. [224]”

Bấy giờ, đức Thế Tôn vì gia chủ Na-câu-la, khai mở, chỉ dạy, soi sáng, làm cho hoan hỷ [225] rồi ngồi im lặng. Sau khi gia chủ Na-câu-la nghe những gì đức Phật đã dạy, tùy hỷ vui mừng, lễ Phật mà lui.

Lúc ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất đang ngồi dưới một bóng cây cách Phật không xa. Gia chủ Na-câu-la đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất, đảnh lễ sát chân, rồi lui ngồi sang một bên. Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi gia chủ:

“Hiện tại các căn của gia chủ vui vẻ, nhan sắc sáng tươi, có phải đã nghe pháp sâu xa từ nơi Thế Tôn rồi chăng?”

Gia chủ Na-câu-la bạch ngài Xá-lợi-phát:

“Hôm nay đức Thế Tôn vì tôi nói pháp, khai mở, chỉ dạy, soi sáng, làm cho hoan hỷ; vì nước pháp cam lồ rưới vào thân tâm tôi, cho nên nay các căn của tôi vui vẻ, nhan sắc sáng tươi.”

Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi gia chủ:

“Đức Thế Tôn đã vì Ông nói những pháp gì, khai mở, chỉ dạy, soi sáng, làm cho hoan hỷ, nhuần thắm nước cam lồ?”

Gia chủ Na-câu-la bạch ngài Xá-lợi-phất:

“Con đến chỗ Thế Tôn, bạch Thế Tôn rằng: ‘Con đã già nua, yếu đuối, khổ hoạn, tự con đến diện kiến đức Thế Tôn cùng các Tỳ-kheo thân quen đáng kính.’ Đức Phật bảo con: ‘Lành thay, Gia chủ! Ông thực sự đã già nua, [33b] yếu đuối, khổ hoạn, mà có thể tự nổ lực đến gặp Ta cùng các Tỳ-kheo thân quen đáng kính trước đây. Bây giờ đối với thân khổ hoạn này, Ông thường nên ở nơi cái thân khổ hoạn này mà tu học thân không khổ hoạn.’ Đức Thế Tôn đã vì con nói pháp như vậy, khai mở, chỉ dạy, soi sáng, làm cho hoan hỷ, nước cam lồ nhuần thuẩn.”

Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi gia chủ:

“Vừa rồi sao Ông không hỏi lại đức Thế Tôn, thế nào là thân bị bệnh khổ, là tâm bị bệnh khổ? Thế nào là thân bị bệnh khổ mà tâm không bị bệnh khổ ?”

Gia chủ đáp:

“Vì lý do này nên con đến gặp Tôn giả, xin vì con nói tóm lược pháp yếu.”

Tôn giả Xá-lợi-phất bảo gia chủ:

“Lành thay, Gia chủ! Nay Ông hãy lắng nghe, tôi sẽ vì Ông mà nói. Kẻ phàm phu ngu si không học, đối với sự tập khởi của sắc, sự diệt tận của sắc, sự tai hại của sắc, về vị ngọt của sắc, sự xuất ly sắc không biết như thật. Vì không biết như thật nên ái lạc sắc, nói rằng sắc là ngã, là ngã sở rồi chấp thủ, nhiếp thủ. Khi sắc này hoặc bị hư hoại, hoặc bị biến đổi, tâm thức cũng tùy theo mà biến chuyển, khổ não liền sanh. Khi khổ não đã sanh thì sự sợ hãi, sự chướng ngại, sự hoài vọng, sự lo nghĩ buồn khổ tham luyến. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Đó gọi là bệnh khổ của thân tâm.

“Thế nào là thân bị bệnh khổ mà tâm không bị bệnh khổ? Đa văn Thánh đệ tử biết như thật về sự tập khởi của sắc, về sự diệt tận của sắc, về vị ngọt của sắc, về sự tai hại của sắc, về xuất ly của sắc. Khi đã biết như thật rồi thì không sanh ra ái lạc, thấy sắc là ngã, hay ngã sở. Sắc này nếu biến dịch hay đổi khác đi nữa, tâm cũng không thay đổi theo mà sanh ra khổ não. Khi tâm đã không biến chuyển theo mà sanh ra khổ não rồi, thì được sự không sợ hãi, chướng ngại, tiếc nuối, lo nghĩ, buồn khổ, tham luyến. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Đó gọi là thân bị bệnh khổ mà tâm không bị bệnh khổ.”

Khi Tôn giả Xá-lợi-phất nói pháp này, gia chủ Na-câu-la đạt được mắt pháp trong sạch. Bấy giờ, gia chủ Na-câu-la thấy pháp, đắc pháp, biết pháp, thâm nhập pháp, vượt qua được mọi sự hồ nghi mà không do ai khác, ở trong chánh pháp tâm đạt được vô sở úy, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy sửa lại y phục, chấp tay bạch Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Con đã được vượt qua, đã được độ thoát. Nay con xin nương về Tam bảo Phật, pháp, tăng, làm người Ưu-bà-tắc; xin ngài chứng biết cho con. Nay con xin nguyện suốt đời nương về Tam bảo.”

Sau khi gia chủ Na-câu-la đã nghe những gì Tôn giả Xá-lợi-phất nói rồi, tùy hỷ hoan hỷ, làm lễ ra đi.

KINH 110. TÂY [226]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại tụ lạc Thiên hiện của dòng họ Thích [227].

Bấy giờ có số đông Tỳ-kheo người phương Tây muốn trở về phương Tây an cư. Ho đi đến [33c] chỗ đức Thế Tôn, đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên. Bấy giờ, đức Thế Tôn vì họ mà nói pháp, khai mở, chỉ dạy, soi sáng, làm cho hoan hỷ. Sau khi bằng nhiều cách được khai mở, chỉ dạy, soi sáng, làm cho hoan hỷ rồi, số đông Tỳ-kheo phương Tây từ chỗ ngồi đứng dậy chấp tay bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, các Tỳ-kheo phương Tây chúng con muốn trở về phương Tây an cư. Nay chúng con xin được từ giã.”

Phật bảo các Tỳ-kheo phương Tây:

“Các Ông đã từ giã Xá-lợi-phất chưa?”

Đáp:

“Bạch, chưa từ giã.”

Phật bảo các Tỳ-kheo phương Tây:

“Xá-lợi-phất thuần tu phạm hạnh, các Ông nên từ giã. Ông ấy có thể làm cho các Ông được lợi ích và an lạc lâu dài.”

Các Tỳ-kheo phương Tây từ tạ mà lui và chuẩn bị đi. Lúc ấy Tôn giả Xá-lợi-phất đang ngồi dưới một bóng cây kiên cố [228] cách Phật không xa. Các Tỳ-kheo đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất, đảnh lễ sát chân, rồi ngồi lui sang một bên, bạch Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Chúng tôi muốn trở về phương Tây an cư, nên đến đây xin từ giã.”

Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi:

“Các Thầy đã từ giã đức Thế Tôn chưa?”

Đáp:

“Thưa đã từ giã rồi.”

Xá-lợi-phất bảo:

“Các Thầy trở về phương Tây, mỗi quốc độ mỗi khác nhau, mỗi chúng hội mỗi khác nhau, ắt sẽ có người hỏi các Thầy. Hiện tại các Thầy đang ở chỗ đức Thế Tôn nghe pháp được khéo giảng thuyết, hãy khéo lãnh thọ, khéo ghi nhớ, khéo quán sát, khéo thâm nhập, để đủ khả năng vì mọi người kia mà tuyên nói lại đầy đủ, không phải là hủy báng đức Phật chăng? Không để cho các chúng kia nạn vấn, gạn hỏi chê trách và bị bế tắc chăng?”

Các Tỳ-kheo bạch ngài Xá-lợi-phất:

“Chúng tôi vì muốn nghe pháp, nên đến chỗ Tôn giả. Xin Tôn giả vì thương xót chúng tôi mà nói pháp đầy đủ.”

Tôn giả Xá-lợi-phất bảo các Tỳ-kheo:

“Người Diêm-phù-đề lợi căn thông minh, hoặc Sát-lị, Sa-môn, Bà-la-môn, hay gia chủ, có thể họ sẽ hỏi các thầy rằng: ‘Đại sư của các ông nói pháp như thế nào? Bằng những pháp nào để truyền dạy cho các ông?’ Các Thầy nên đáp, ‘Đại sư chỉ nói điều phục dục tham, và chỉ đem pháp này để truyền dạy.’

“Họ sẽ hỏi lại các Thầy, ‘Ở trong pháp nào mà điều phục dục tham?’ Các Thầy nên đáp: ‘Đại sư chỉ nói ở trong sắc uẩn kia mà điều phục dục tham; ở trong thọ, tưởng, hành, thức uẩn kia mà điều phục dục tham. Đại sư của chúng tôi nói pháp như vậy.’

“Họ sẽ lại hỏi, ‘Dục tham có tai hại gì mà Đại sư lại nói ở ngay nơi sắc điều phục dục tham; nơi thọ, tưởng, hành, thức điều phục dục tham?’ Các Thầy nên trả lời: ‘Nếu ở nơi sắc mà dục không đoạn trừ, tham không đoạn trừ, ái không đoạn trừ, niệm không đoạn trừ, khát không đoạn trừ, và khi sắc kia biến đổi, hoặc khác đi, thì sẽ sinh ra ưu, bi, [34a] não, khổ; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Vì thấy dục tham có những tai hại như vậy, nên ở nơi sắc phải điều phục dục tham; ở nơi thọ, tưởng, hành, thức điều phục dục tham.’

“Họ sẽ lại hỏi: ‘Thấy có lợi ích gì trong việc dứt trừ dục tham, mà Đại sư nói ở nơi sắc phải điều phục dục tham; ở nơi thọ, tưởng, hành, thức điều phục dục tham?’ Các Thầy nên trả lời: ‘Nếu ở nơi sắc mà đoạn trừ dục, đoạn trừ tham, đoạn trừ niệm, đoạn trừ ái, đoạn trừ khát, thì đối với sắc nếu có biến đổi, hoặc khác đi, vẫn không khởi lên ưu, bi, não, khổ. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Thưa các ngài, nếu vì nguyên nhân nhận lãnh các pháp bất thiện mà khiến cho cuộc sống ngay trong hiện tại vẫn được an vui, không khổ, không chướng ngại, không phiền não, không nóng bức, thân hoại mạng chung được sanh vào nơi tốt lành, thì đức Thế Tôn cuối cùng đã không dạy: Hãy đoạn trừ các pháp bất thiện. Và cũng không dạy người ở trong Phật pháp tu các phạm hạnh, để đạt được tận cùng khổ biên. Vì nguyên nhân nhận lãnh các pháp bất thiện nên sẽ đưa đến một cuộc sống khổ đau ngay trong hiện tại, và chướng ngại, nhiệt não, sau khi thân họai mạng chung sẽ đọa vào trong đường ác. Cho nên đức Thế Tôn dạy, hãy đoạn trừ pháp bất thiện, và ở trong Phật pháp phải tu các phạm hạnh để đạt được tận cùng khổ biên, bình đẳng giải thoát hết khổ. Nếu vì nguyên nhân nhận lãnh các pháp thiện, mà ngay trong cuộc sống hiện tại chịu khổ, chướng ngại, nhiệt não, và sẽ đọa vào trong đường ác, Thế Tôn đã không dạy nên thọ trì pháp thiện, ở trong Phật pháp phải tu phạm hạnh để đạt được tận cùng khổ biên, bình đẳng giải thoát hết khổ. Vì thọ trì pháp thiện nên ngay trong cuộc sống hiện tại được an vui, không khổ, không chướng ngại, không phiền não, không nhiệt bức; sau khi thân họai mạng chung sẽ sanh vào nơi tốt lành. Cho nên đức Thế Tôn khen ngợi việc dạy người lãnh thọ các pháp thiện, ở trong Phật pháp tu các phạm hạnh để đạt được rốt cùng của khổ biên, bình đẳng giải thoát hết khổ.”

Khi Tôn giả Xá-lợi-phất nói pháp này, các Tỳ-kheo phương Tây không khởi lên các lậu hoặc, tâm được giải thoát.

Sau khi Tôn giả Xá-lợi-phất nói pháp này xong, các Tỳ-kheo tùy hỷ hoan hỷ, làm lễ mà lui.

KINH 111. MAO ĐOAN [229]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Như hồ nước vuông vức năm mươi do-tuần, chiều sâu cũng như vậy, với nước tràn đầy. Lại có người dùng sợi lông, dùng cọng cỏ, hay móng tay để hất nước. Này các Tỳ-kheo, ý các ngươi thế nào? Nước do người kia hất lên là nhiều hay là nước hồ nhiều?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Nước mà người kia dùng lông, dùng cỏ, hay móng tay [33b] để hất lên là rất ít, không đáng để nói. Nước hồ thì rất nhiều, gấp cả trăm ngàn vạn lần, không thể nào so sánh được.”

“Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, các khổ được đoạn trừ do thấy Thánh đế, cũng như nước hồ kia, vĩnh viễn không sanh lại trong đời vị lai.”

Khi đức Thế Tôn nói pháp này xong, bèn vào thất tọa thiền. Sau khi đức Thế Tôn vào thất, bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất đang ngồi trong chúng, bảo các Tỳ-kheo:

“Thật là điều chưa từng được nghe, hôm nay đức Thế Tôn khéo nói thí dụ về cái hồ! Vì sao? Thánh đệ tử đầy đủ kiến đế [230], đạt được quả hiện quán [231]. Nếu kẻ phàm tục nào khởi tà kiến, thân kiến, căn bổn thân kiến, tập thân kiến, sanh thân kiến, nghĩa là che dấu những cảm giác lo âu, giữ gìn tiếc thương những điều vui mừng [232], nói là ngã, nói là chúng sanh, nói là kỳ đặc, kiêu căng, tự cao. Các thứ tà như vậy tất cả đều bị trừ diệt, cắt đứt cội rễ như cây đa-la bị bẻ gãy, khiến cho đời vị lai không còn tái sanh lại nữa.

“Này các Tỳ-kheo, những gì là các thứ tà kể trên bị đoạn trừ bởi Thánh đệ tử khi thấy Thánh đế, vị lai vĩnh viễn không khởi lên lại nữa?

“Phàm phu ngu si không học, thấy sắc là ngã, là khác ngã, là ngã ở trong sắc, sắc ở trong ngã; thấy thọ, tưởng, hành, thức là ngã, là khác ngã, là ngã ở trong thức, là thức ở trong ngã.

“Thế nào thấy sắc là ngã? Chứng đắc chánh thọ biến xứ định về đất [233], sau khi quán, khởi lên ý nghĩ, ‘Đất tức là ngã, ngã tức là đất; ngã và đất chỉ là một chứ không phải hai, không phải khác, không phân biệt.’ Cũng vậy, chánh thọ biến xứ định về nước, lửa, gió, xanh, vàng, đỏ, trắng [234], sau khi quán, khởi lên ý nghĩ, ‘ Hành tức là ngã, ngã tức là hành, chỉ là một chứ không phải hai, không phải khác, không phân biệt.’ Như vậy, ở nơi các biến xứ định, mỗi mỗi đều được chấp là ngã. Đó gọi là sắc tức là ngã. 

“Thế nào là sắc khác ngã [235]? Nếu người kia thấy thọ là ngã; khi thấy thọ là ngã rồi thì thấy sắc là ngã sở; hoặc thấy tưởng, hành, thức tức là ngã thì thấy sắc là ngã sở.

“Thế nào là thấy sắc ở trong ngã? Thấy thọ là ngã thì sắc ở trong ngã; nếu lại thấy tưởng, hành, thức tức là ngã thì sắc ở trong ngã.

“Thế nào là thấy ngã ở trong sắc? Nếu thấy thọ tức là ngã thì nó hiện hữu trong sắc, nhập vào trong sắc, phổ biến khắp tứ chi; hay nếu thấy tưởng, hành, thức là ngã thì nó hiện hữu ở trong sắc và, biến khắp tứ chi. Đó gọi là ngã ở trong sắc.

“Thế nào là thấy thọ tức là ngã? Có sáu thọ thân. Thọ phát sanh từ xúc của mắt. tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Sáu thọ thân này, mỗi mỗi được thấy là ngã, và ngã là thọ. Đó gọi là thọ tức [34c] ngã.

“Thế nào là thấy thọ khác ngã? Nếu thấy sắc là ngã, thì thọ là ngã sở; và nếu tưởng, hành, thức là ngã, thì thọ là ngã sở. Đó gọi là thọ khác ngã.

“Thế nào là thấy thọ ở trong ngã? Nếu sắc là ngã, thì thọ ở trong nó; nếu tưởng, hành, thức là ngã, thì thọ ở trong nó. Đó gọi là thọ trong ngã.

“Thế nào là thấy ngã ở trong thọ? Nếu sắc là ngã, thì nó hiện hữu ở trong thọ và biến khắp toàn thân; nếu tưởng, hành, thức là ngã, thì chúng hiện hữu ở trong thọ, và biến khắp toàn thân. Đó gọi là ngã ở trong thọ .

“Thế nào là thấy tưởng tức là ngã? Có sáu tưởng thân. Tưởng phát sanh từ xúc của mắt; tưởng phát sanh từ xúc của tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Sáu tưởng thân này, mỗi mỗi được thấy là ngã. Đó gọi là tưởng tức là ngã.

“Thế nào là thấy tưởng khác ngã? Nếu thấy sắc là ngã, thì tưởng là ngã sở; nếu thức là ngã, thì tưởng là ngã sở. Đó gọi là tưởng khác ngã.

“Thế nào là thấy tưởng ở trong ngã? Nếu sắc là ngã, thì tưởng hiện hữu ở trong nó; nếu thọ, hành, thức là ngã, thì tưởng hiện hữu ở trong chúng. Đó gọi là tưởng ở trong ngã.

“Thế nào là thấy ngã ở trong tưởng? Nếu sắc là ngã, thì nó hiện hữu trong tưởng, và biến khắp toàn thân; và nếu thọ, hành, thức là ngã thì chúng hiện hữu trong tưởng, và biến khắp toàn thân. Đó gọi là ngã ở trong tưởng.

“Thế nào là thấy hành là ngã? Có sáu tư thân. Tư phát sanh từ xúc của mắt; tư phát sanh từ xúc của tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Sáu tư thân này, mỗi mỗi được thấy ngã. Đó gọi là hành tức ngã.

“Thế nào là thấy hành khác ngã? Nếu thấy sắc là ngã, thì hành là ngã sở; nếu thọ, tưởng, thức là ngã, thì hành là ngã sở. Đó gọi là hành khác ngã.

“Thế nào là thấy hành ở trong ngã? Nếu sắc là ngã, thì hành hiện hữu ở trong nó; nếu thọ, tưởng, thức là ngã, thì hành hiện hữu ở trong chúng. Đó gọi là hành ở trong ngã.

“Thế nào là thấy ngã ở trong hành? Nếu sắc là ngã, thì nó hiện hữu ở trong hành, và biến khắp toàn thân; nếu thọ, tưởng, thức là ngã, thì chúng hiện hữu ở trong hành, và biến khắp toàn thân thể. Đó gọi là ngã ở trong hành.

“Thế nào là thấy thức là ngã? Có sáu thức thân: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Sáu thức thân này, mỗi mỗi được thấy là ngã. Đó gọi là thức tức ngã.

“Thế nào là thấy thức khác ngã? Nếu thấy sắc là ngã, thì thức là ngã sở; nếu thấy thọ, tưởng, hành là ngã, thì thức là ngã sở. Đó gọi là thức khác ngã.

“Thế nào là thấy thức ở trong ngã? Nếu thấy sắc là ngã, thì thức hiện hữu ở trong nó; nếu thọ, tưởng, hành là ngã, thì thức ở trong chúng. Đó gọi là thức ở trong ngã.

“Thế nào là ngã ở trong thức? Nếu sắc là ngã, thì nó ở trong thức, và biến khắp toàn thân; nếu thọ, tưởng, hành [35a] là ngã thì chúng ở trong thức, và biến khắp toàn thân. Đó gọi là ngã ở trong thức.

“Như vậy, Thánh đệ tử thấy bốn Chân đế sẽ đạt được quả hiện quán [236], và đoạn trừ các thứ tà kiến, vĩnh viễn không khởi lên trở lại trong đời vị lai.

“Những gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần, được tích tụ về một nơi, cần được quán như vầy: ‘Tất cả đều là vô thường, tất cả là khổ, tất cả là không, tất cả là phi ngã, không nên ái lạc, thâu lấy, chấp thủ. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy, không nên ái lạc, chấp thủ, bảo trì.’ Khéo quán sát như vậy, buộc tâm an trụ, không mê mờ đối với pháp, lại luôn luôn tinh tấn quán sát, xa lìa tâm biếng nhác, thì sẽ đạt được hỷ lạc, thân tâm khinh an, tịch tĩnh, an trụ với xả [237]; đầy đủ các phẩm đạo, tu hành trọn vẹn, vĩnh viễn xa lìa các thứ ác; không phải không tiêu tan, không phải không tịch diệt; diệt mà không khởi, giảm mà không tăng, đoạn mà không sanh, không chấp thủ, không đắm trước, tự giác ngộ Niết-bàn: tự biết ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.”

Khi Tôn giả Xá-lợi-phất nói pháp này, sáu mươi Tỳ-kheo không khởi lên các lậu hoặc, tâm được giải thoát.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 112. TÁT-GIÁ [238]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở cạnh ao Di-hầu tại Tì-xá-li [239].

Bấy giờ, tại Tì-xá-li có một Ni-kiền Tử [240] thông tuệ, minh triết, hiểu rõ các luận, và có sự kiêu mạn của thông minh; tích tập các luận rất rộng rãi, và trí tuệ đã đạt đến chỗ vi diệu; nói pháp cho mọi người vượt hẵn mọi luận sư. Ông thường nghĩ rằng: ‘Các Sa-môn, Bà-la-môn không ai địch lại ta. Ngay cả đến với Như lai ta cũng có thể cùng luận bàn. Bọn luận sư nghe đến tên ta thì trán và nách đều toát mồ hôi, các lỗ chân lông đều chảy nước. Ta luận nghĩa như gió có thể đè bẹp cỏ, bẻ gãy cây, phá vỡ vàng đá, và hàng phục các loài rồng voi, huống chi là bọn luận sư ở thế gian lại có thể đương đầu với ta ư!”

Lúc này, có Tỳ-kheo tên là A-thấp-ba-thệ [241], sáng sớm đắp y mang bát, oai nghi tề chỉnh, mắt đoan chánh nhìn thẳng bước, vào thành khất thực. Bấy giờ, Ni-kiền tử Tát-giá [242] có chút việc đi đến các làng xóm. Từ cửa thành ra trông thấy Tỳ-kheo A-thấp-ba-thệ, ông liền đến chỗ Tỳ-kheo hỏi:

“Sa-môn Cù-đàm vì các [35b] đệ tử nói pháp như thế nào? Dùng những pháp nào để dạy cho các đệ tử khiến cho họ tu tập?”

A-thấp-ba-thệ nói:

“Này cư sĩ Hỏa chủng [243], đức Thế Tôn nói pháp như vầy để dạy cho các đệ tử, khiến cho họ theo đó mà tu học. Ngài dạy các Tỳ-kheo: ‘Đối với sắc hãy quán là không có ngã; với thọ, tưởng, hành, thức, hãy quán là không có ngã. Đối với năm thủ uẩn này phải siêng năng phương tiện quán sát như là bệnh, như là ung nhọt, như là gai nhọn, như là giết hại, là vô thường, khổ, không, chẳng phải ngã.’”

Ni-kiền tử Tát-giá nghe những lời nói này, tâm không vui, liền nói rằng:

“A-thấp-ba-thệ, chắc Ông đã nghe lầm rồi! Sa-môn Cù-đàm hoàn toàn không nói những lời này. Nếu Sa-môn Cù-đàm đã nói những lời này thì đó là thứ tà kiến; tôi sẽ đến nạn vấn ông Ta để khiến phải từ bỏ.”

Bấy giờ, Ni-kiền tử Tát-giá đi đến các làng xóm, tại chỗ những người Li-xa đang tụ hội, nói với các Li-xa rằng:

“Hôm nay tôi có gặp vị đệ tử thứ nhất của Sa-môn Cù-đàm, tên là A-thấp-ba-thệ, cùng nhau bàn luận. Nếu đúng như lời ông ta nói, thì tôi sẽ đến chỗ Sa-môn Cù-đàm cùng bàn luận, làm cho xoay chuyển tiến thối đều theo ý của tôi.

“Giống như người cắt cỏ, tay nắm thân chúng đưa lên rũ bỏ đi những loại tạp uế. Tôi cũng như vậy, tôi cùng với Sa-môn Cù-đàm cật vấn bàn luận, tôi sẽ nắm lấy chỗ cốt yếu, rồi mặc ý xoay tới hay xoay lui, loại bỏ đi cái tà ấy.

“Như người nấu rượu, cầm túi hèm rượu ép lấy nước tinh thuần, và bỏ đi cặn bã hèm. Tôi cũng như vậy, đi đến Sa-môn Cù-đàm nạn vấn bàn luận, tôi sẽ nắm lấy chỗ thuần chân, rồi mặc ý xoay tới hay xoay lui, loại bỏ đi cái tà ấy.

“Như thợ dệt chiếu, dùng chiếu đựng đầy vật bẩn, nên trước khi muốn đem ra chợ bán, phải tẩy xóa những vết bẩn, loại bỏ đi những mùi hôi thối. Tôi cũng như vậy, đi đến Sa-môn Cù-đàm nạn vấn bàn luận, tôi sẽ nắm lấy chỗ cương lĩnh, rồi mặc ý xoay tới hay xoay lui, loại bỏ các thuyết uế tạp.

“Như người huấn luyện voi của vua, dắt con voi say vào trong nước sâu, rửa thân thể nó, tứ chi, tai, mũi; toàn thân thể của nó đều được tắm rửa, trừ bỏ các thứ bụi bẩn. Tôi cũng như vậy, đi đến Sa-môn Cù-đàm nạn vấn bàn luận, tôi sẽ nắm lấy chỗ yếu lĩnh, rồi mặc ý xoay tới hay xoay lui, loại bỏ các thuyết uế tạp. Các Li-xa, các người cũng nên cùng tôi đến để xem sự hơn thua.”

Trong nhóm Li-xa có người nói rằng:

“Ni-kiền tử Tát-giá mà có thể cùng với Sa-môn Cù-đàm bàn luận, điều này không thể xảy ra.”

Lại có người nói:

“Ni-kiền tử Tát-giá, là người lợi [35c] căn thông tuệ, có khả năng luận bàn với Sa-môn Củ-đàm.”

Lúc này, có năm trăm Li-xa cùng Ni-kiền tử Tát-giá đi đến chỗ đức Phật để luận bàn. Bấy giờ, đức Thế Tôn đang ngồi dưới bóng cây ở trong rừng Đại lâm, an trú nơi Thiên trụ [244]. Giờ này có nhiều Tỳ-kheo ra khỏi phòng và đang đi kinh hành trong rừng, từ xa trông thấy Ni-kiền tử Tát-giá đang đi đến. Đến chỗ các Tỳ-kheo, Tát-giá hỏi các Tỳ-kheo :

“Sa-môn Cù-đàm đang ở chỗ nào?”

Các Tỳ-kheo đáp:

“Đang ngồi dưới bóng cây trong Đại lâm, nơi ở của chư Thiên.”

Ni-kiền tử Tát-giá liền đến chỗ đức Phật, cung kính hỏi thăm, rồi ngồi sang một bên. Các gia chủ Li-xa cũng đến chỗ đức Phật, có người cung kính, có người người chấp tay chào hỏi, rồi đứng sang một bên. Bây giờ, Ni-kiền tử Tát-giá bạch Phật:

“Tôi nghe Cù-đàm nói pháp như vầy, và dạy các đệ tử như vầy: ‘Đối với sắc hãy quán là không có ngã; với thọ, tưởng, hành, thức, hãy quán là không có ngã. Đối với năm thủ uẩn này phải siêng năng phương tiện quán sát như là bệnh, như là ung nhọt, như là gai nhọn, như là giết hại, là vô thường, khổ, không, chẳng phải ngã.’ Có phải Cù-đàm dạy như vậy hay không? hay đây là những lời tuyên truyền với mục đích là để hủy báng Cù-đàm chăng? Thuyết là như thuyết, hay không như thuyết? Thuyết đúng như pháp chăng? Thuyết theo thuận thứ của pháp chăng? Không có kẻ khác nào đến nạn vấn dồn vào chỗ bế tắc chăng?”

Phật nói với Ni-kiền tử Tát-giá:

“Như những gì Ông đã nghe. Thuyết là như thuyết, là thuyết đúng như pháp, thuyết theo thuận thứ của pháp, chứ chẳng phải là hủy báng, và cũng không có nạn vấn nào khiến bị bế tắc. Vì sao? Ta đã thật sự vì các đệ tử mà thuyết pháp như vậy. Ta đã thật sự luôn luôn dạy dỗ các đệ tử để cho họ tùy thuận theo pháp giáo, khiến họ quán sắc là không ngã, thọ, tưởng, hành, thức là không ngã. Quán năm thủ uẩn này như là bệnh, như ung nhọt, như gai nhọn, như giết hại, là vô thường, khổ, không, phi ngã.”

Ni-kiền tử Tát-giá bạch Phật rằng:

“Thưa Cù-đàm, bây giờ, tôi sẽ đưa ra một thí dụ.”

Phật bảo Ni-kiền tử Tát-giá:

“Nếu thấy thích hợp.”

“Ví như tất cả những gì được tạo tác ở thế gian đều nương trên đất; cũng vậy sắc là con người [245], mọi việc thiện ác đều phát sanh từ đó [246]. Thọ, tưởng, hành, thức là con người; mọi việc thiện ác cũng đều phát sanh từ đó. Thêm một thí dụ nữa, như loài người, loài thần, cỏ thuốc, cây cối, đều nương vào đất mà được sanh trưởng; cũng vậy sắc là con người. Thọ, tưởng, hành, thức là con người.”

Phật nói:

“Này Hỏa chủng [36a] cư sĩ, Ông nói sắc là con người [247]; thọ, tưởng, hành, thức là con người chăng?”

Đáp:

“Thưa Cù-đàm, đúng như vậy. Sắc là con người; thọ, tưởng, hành, thức là người. Ở đây tất cả mọi người đều nói như vậy.”

Phật bảo Hỏa chủng cư sĩ:

“Thôi, hãy lập luận theo luận thuyết của Ông đi, việc gì phải đem mọi người ra làm gì.”

Ni-kiền tử Tát-giá bạch Phật:

“Sắc thật sự là con người.”

Phật bảo Hỏa chủng cư sĩ:

“Bây giờ, Ta hỏi Ông, cứ theo ý Ông mà đáp. Như quốc vương, mà trong nước mình nếu có người phạm tội, hoặc giết, hoặc trói, hoặc đuổi, hoặc đánh bằng roi, hoặc chặt tay chân. Hoặc nếu có người có công thì vua sẽ ban thưởng voi, ngựa, xe cộ, thành ấp, tài sản, bảo vật cho. Tất cả vua đều làm được, phải không?”

Đáp:

“Thưa Cù-đàm, có thể làm được như vậy.”

Phật bảo Hỏa chủng cư sĩ:

“Phàm là người chủ, ắt phải được tự tại chăng?”

Đáp:

“Thưa Cù-đàm, đúng như vậy.”

Phật bảo Hỏa chủng cư sĩ:

“Ông nói sắc là ngã; thọ, tưởng, tưởng, hành, thức là ngã, vậy có được tùy ý tự tại khiến nó như vậy hay không như vậy chăng?”

Lúc này, Ni-kiền tử Tát-giá ngồi im.

Phật bảo Hỏa chủng cư sĩ:

“Nói ngay đi! Nói ngay đi! Tại sao im lặng?”

Ba lần hỏi như vậy, Ni-kiền tử vẫn cố im lặng. Ngay lúc đó thần Lực sĩ Kim cang [248] đang ở giữa hư không, cầm chày kim cang lửa bốc mạnh hừng hực, đặt trên đầu Ni-kiền tử Tát-giá bảo rằng: “Đức Thế Tôn đã ba lần hỏi, tại sao Ông không trả lời? Ta sẽ dùng chiếc chày Kim cương đập vỡ đầu Ông ra làm bảy mảnh.” Vào lúc ấy, nhờ vào thần lực của Phật, nên chỉ khiến cho một mình Ni-kiền tử Tát-giá thấy Thần Kim cang mà thôi, ngoài ra không một ai thấy hết.

Ni-kiền tử Tát-giá thấy vậy sợ hãi quá bạch Phật rằng:

“Thưa Cù-đàm, không phải như vậy.”

Phật bảo Ni-kiền tử Tát-giá:

“Hãy chậm rãi suy nghĩ, sau đó mới nói rõ. Trước đây, ở giữa mọi người, Ông bảo sắc là ngã; thọ, tưởng, hành, thức cũng là ngã. Nhưng bây giờ lại bảo là không phải. Trước sau mâu thuẫn nhau. Trước đây, Ông thường bảo rằng sắc là ngã; thọ, tưởng, hành, thức cũng là ngã. Này Hỏa chủng cư sĩ, nay Ta hỏi Ông, sắc là thường hay là vô thường?”

Đáp:

“Thưa Cù-đàm, là vô thường.”

Lại hỏi:

“Vô thường có phải là khổ không?”

Đáp:

“Thưa Cù-đàm, là khổ.”

Lại hỏi:

“Vô thường, khổ, là pháp biến dịch, vậy Đa văn Thánh đệ tử ở trong đó có thấy ngã, khác ngã, hay ở trong nhau không?”

Đáp:

“Thưa Cù-đàm, không.”

“Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.”

Phật bảo:

“Hỏa chủng cư sĩ, Ông hãy suy nghĩ cho kỹ rồi sau mới nói.”

Lại hỏi Hỏa chủng cư sĩ:

“Nếu đối với sắc mà chưa lìa tham, chưa lìa dục, chưa lìa niệm, chưa lìa ái, chưa lìa khát, khi sắc này biến đổi, hoặc khác đi thì nó sẽ sanh ra ưu, bi, não, khổ chăng?”

Đáp:

“Thưa Cù-đàm, đúng vậy.”

“Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.”

Lại hỏi:

“Hỏa chủng cư sĩ, nếu đối với sắc mà lìa tham, lìa dục, lìa niệm, lìa ái, lìa khát, khi sắc này biến đổi, hoặc khác đi, thì kia sẽ không sanh ra ưu, bi, não, khổ chăng?”

Đáp:

“Thưa Cù-đàm, đúng vậy, như thật không khác.”

“Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.”

“Này Hỏa chủng cư sĩ, như thân mắc các bệnh khổ, thường bị khổ câu thúc, cái khổ này không dứt, không vứt đi được, người kia được an vui chăng?”

Đáp:

“Thưa Cù-đàm, không.”

“Như vậy, này Hỏa chủng cư sĩ, khi thân mắc các bệnh khổ, thường bị khổ câu thúc, cái khổ này không dứt, không vứt đi được, thì không được an vui.

“Này Hỏa chủng cư sĩ, như người mang búa vào núi, tìm lõi cây thật chắc. Thấy cây chuối to lớn, ngay thẳng, người ấy liền chặt rễ lá và lột bẹ của nó cho đến tận cùng, mà vẫn không thấy cái lõi chắc thật. Này Hỏa chủng cư sĩ, Ông cũng như vậy, đã tự lập ra luận thuyết, nhưng nay Ta đã khéo léo tìm ra cái nghĩa chân thật của nó, mà vẫn không thấy được cái cốt lõi chân thật, nó giống như cây chuối vậy. Thế mà ở giữa mọi người, Ông dám đứng ra tuyên bố là: ‘Trong đám Sa-môn, Bà-la-môn, Ta không thấy một ai có tri kiến có thể cùng đem bàn luận với tri kiến của Như lai Ứng Đẳng Chánh Giác mà không bị chiết phục.’ Và lại tự nói, ‘Ta luận nghĩa như gió có thể đè bẹp cỏ, bẻ gãy cây, phá vỡ vàng đá, và hàng phục các loài rồng voi, đến nỗi có thể khiến cho họ toát mồ hôi trán, toát mồ nách, và các lỗ chân lông đều đẩm nước.’ Nay Ông đã tự luận nghĩa cho chính mình, nhưng không tự lập lại những lời lẽ khoác lác trước đây, là có thể chiết phục mọi hiện tượng này. Hiện tại Ông đã đem hết khả năng lý sự thủ đắc của mình, mà không thể làm lay động được một sợi lông của Như lai.”

Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa mọi người, vén uất-đa-la-tăng bày ngực và chỉ:

“Mọi người hãy nhìn xem, có thể nào làm lay động được một sợi lông của Như lai không?”

Lúc này, Ni-kiền tử Tát-giá im lặng, cúi đầu, hổ thẹn, thất sắc. Khi ấy ở trong chúng có một Li-xa tên là Đột-mục-khư [249], từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, chấp tay bạch Phật:

“Thưa Thế Tôn, cho phép con nói thí dụ.”

Phật bảo Đột-một-khư:

“Nếu thấy hợp thời.”

Đột-một-khư bạch Phật:

“Thưa Thế Tôn, thí như có người mang cái đấu, cái hộc vào trong một đống thóc lớn xúc ra hai, ba hộc; hiện tại Ni-kiền tử Tát-giá cũng [36c] giống như vậy. Thưa Thế Tôn, giống như một gia chủ giàu có, nhiều của cải, bỗng nhiên phạm vào tội lỗi, nên tất cả những tài vật đó đều bị sung vào nhà vua; Ni-kiền tử Tát-giá cũng giống như vậy, tất cả mọi sự biện tài có được của Ông, đều bị Như lai tóm thâu hết. Giống như cạnh làng xóm, thành ấp có con sông lớn, mọi nam nữ lớn nhỏ đều vào trong dòng nước nô đùa, họ bắt lấy con cua ở trong nước bẻ gãy chân rồi đem đặt trên mặt đất; vì không có chân nên không thể trở lại dòng sông được; Ni-kiền tử Tát-giá cũng giống như vậy, các biện tài của Ông đều bị Như lai bẻ gãy, để rồi không bao giờ dám trở lại cùng Như lai bàn luận đối địch nữa.”

Lúc này, Ni-kiền tử Tát-giá vô cùng tức giận, thóa mạ Li-xa Đột-mục-khư:

“Nhà ngươi là đồ thô lỗ; không biết gì hết sao lại rống lên? Tự ta cùng Sa-môn Cù-đàm bàn luận, chứ có can hệ gì đến việc của ngươi đâu?”

Ni-kiền tử thóa mạ Đột-mục-khư rồi, lại bạch Phật:

“Hãy gác qua những lời nói của tên hạ tiện kia đi. Bây giờ riêng tôi có điều muốn hỏi.”

Phật bảo Ni-kiền tử Tát-giá:

“Tùy ý Ông cứ hỏi, Ta sẽ theo câu hỏi mà trả lời.”

“Vì đệ tử, Cù-đàm nói pháp như thế nào để cho họ xa lìa nghi hoặc?”

Phật bảo Hỏa chủng cư sĩ:

“Ta nói cho các đệ tử rằng: ‘Những gì thuộc về sắc, hoặc là quá khứ, hoặc là hiện tại, hoặc là vị lai; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả chúng đều quán sát như thật, chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng phải ở trong nhau. Và đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.’ Kia học tập như vậy chắc chắn sẽ thấy được dấu vết con đường [250], không bị đứt mất, có thể thành tựu tri kiến nhàm chán, canh giữ cửa cam lồ. Tuy chẳng phải tất cả đều đạt được cứu cánh, nhưng tất cả đều hướng đến Niết-bàn. Đệ tử theo pháp dạy của Ta như vậy sẽ được xa lìa nghi hoặc.”

Lại hỏi:

“Thưa Cù-đàm, Ngài dạy thế nào để cho các đệ tử ở trong Phật pháp chứng đắc lậu tận, tâm vô lậu giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong đời hiện tại mà tự tri, tự tác chứng, biết rằng: ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa?’”

Phật bảo:

“Hỏa chủng cư sĩ, chính bằng pháp này: ‘Những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả chúng đều biết như thật, là chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng phải ở trong nhau; và thọ, tưởng, hành, thức chúng cũng lại như vậy,’ mà đệ tử kia lúc bấy giờ thành tựu được ba thứ vô  thượng: [37a] Trí vô thượng, Đạo vô thượng, Giải thoát vô thượng [251]. Khi đã thành tựu được ba vô thượng này rồi, vị ấy đối với Đại sư mà cung kính, tôn trọng, cúng dường như là Phật, rằng: ‘Thế Tôn đã giác ngộ tất cả các pháp, rồi bằng pháp này, Ngài điều phục đệ tử khiến cho họ được an lạc, khiến cho họ được vô úy, điều phục tịch tĩnh, cứu cánh Niết-bàn. Đức Thế Tôn vì mục đích Niết-bàn nên nói pháp cho các đệ tử.’

“Này Hỏa chủng cư sĩ, các đệ tử của Ta ở trong pháp này mà chứng đắc lậu tận, được tâm giải thoát, được tuệ giải thoát, ở ngay trong đời này mà tự tri, tự tác chứng, biết rằng: ‘Ta, sự sanh đã chuẩn dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Ni-kiền tử Tát-giá bạch Phật:

“Thưa Cù-đàm, giống như một người khỏe mạnh bị những mũi đao nhọn rơi loạn xạ vào người, họ còn có thể thoát ra được, nhưng đối với thủ thuật luận bàn của Cù-đàm, thì thật khó có thể thoát được. Như rắn nhiều nọc độc còn có thể tránh được; như lửa mạnh ở giữa đầm hoang còn có thể tránh được; voi say hung dữ cũng có thể thoát được; như sư tử đói cuồng điên, tất cả đều có thể thoát được hết, nhưng đối với trong thủ thuật luận bàn của Sa-môn Cù-đàm thì thật là khó có thể thoát được. Không phải như bọn tầm thường chúng tôi, khinh suất, lỗ mãng, luận thuyết nửa vời, mà có thế đến chỗ Cù-đàm để luận nghị được.

“Thưa Sa-môn Cù-đàm, Tì-xá-li này là nước an lạc, thịnh vượng, lại có các tháp miếu Giá-ba-lê, Tất-yêm-la-thọ, Đa-tử, và Cù-đàm có thể ở tại tháp miếu Câu-lâu-đà, hay Ba-la-thọ-trì, hay Xả-trọng-đảm, hay Lực sĩ Bảo-quan. [252] Thế Tôn sẽ an lạc ở nước Tì-xá-li này, vì ở chỗ Thế Tôn thường được cung kính, phụng sự, cúng dường bỡi chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn cùng những người trong thế gian; và nhờ những việc làm này, sẽ khiến cho chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn luôn luôn được an lạc. Xin Ngài hãy lại nơi này, và sáng mai xin Ngài cùng đại chúng nhận bữa ăn đạm bạc của con.”

Bấy giờ, đức Thế Tôn im lặng nhận lời mời. Ni-kiền tử Tát-giá biết đức Thế Tôn đã nhận lời mời rồi, tùy hỷ vui mừng, từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.

Trên đường về, Ni-kiền tử Tát-giá bảo các Li-xa:

“Ta đã thỉnh được Sa-môn Cù-đàm và đại chúng để cúng dường trai phạn, các Ông, mỗi người hãy sửa soạn một món ăn đem đến chỗ ta.”

Các Li-xa mỗi người trở về nhà họ, ngay đêm hôm đó họ sửa soạn đồ cúng dường, và sáng sớm đem đến chỗ Ni-kiền tử Tát-giá. Sáng hôm ấy, Ni-kiền tử Tát-giá lo rưới nước quét dọn nhà cửa, trải chỗ ngồi, chuẩn bị nước sạch, rồi sai người đến Phật [37b] thưa là đã đến giờ.

Bấy giờ, đức Thế Tôn cùng đại chúng đắp y mang bát đến nhà Ni-kiền tử Tát-giá, Ngài ngồi trước đại chúng. Ni-kiền tử Tát-giá tự tay dâng đầy đủ đồ ăn thức uống thanh tịnh cho đại chúng. Sau khi thọ thực và rửa bát xong, Ni-kiền tử Tát-giá biết Phật và đại chúng đã hoàn tất xong mọi việc, Ông lấy một cái ghế thấp đặt ngồi trước Phật. Bấy giờ, đức Thế Tôn vì Ni-kiền tử Tát-giá mà tùy hỷ nói kệ:

Ở trong các lễ hội,

Thờ lửa là hơn hết.

Trong kinh điển Vi-đà,

Bà-tì-đế [253] trên hết.

Con người, vua là nhất.

Các sông, biển là hơn.

Các sao, trăng là nhất.

Ánh sáng, mặt trời nhất.

Trong mười phương trời-người,

Đẳng Chánh Giác là nhất.

Bấy giờ, đức Thế Tôn vì Ni-kiền tử Tát-giá nói đủ các thứ pháp, soi sáng, chỉ dạy, là cho an vui rồi, trở về chỗ cũ. Trên đường trở về các Tỳ-kheo cùng nhau bàn tán về việc năm trăm Li-xa đã vì Ni-kiền tử Tát-giá mà đã sửa sọan đồ ăn thức uống cúng dường. Các Li-xa này sẽ được phước gì? Còn Ni-kiền tử Tát-giá sẽ được phước gì?

Khi các Tỳ-kheo đã trở về trú xứ, đem cất y bát và rửa chân xong đến chỗ đức Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Trên đường về chúng con cùng nhau bàn tán về việc năm trăm Li-xa đã vì Ni-kiền tử Tát-giá sửa soạn đồ ăn thức uống, cúng dường Thế Tôn và đại chúng. Vậy năm trăm Li-xa này sẽ được phước gì? và Ni-kiền tử Tát-giá sẽ được phước gì?

Phật bảo các Tỳ-kheo :

“Năm trăm Li-xa này đã vì Ni-kiền tử, sửa soạn đồ ăn thức uống cúng dường, thì sẽ tạo nhân duyên được phước đối với chỗ Ni-kiền tử Tát giá. Còn Ni-kiền tử Tát giá thì sẽ được phước công đức Phật. Các Li-xa này được nhân duyên quả báo của bố thí nhưng có tham, sân, si; còn Ni-kiền tử Tát-giá thì sẽ được nhân duyên quả báo bố thí nhưng không có tham, sân, si.”

Bài kệ tóm lược nội dung những kinh trên:

Mười câu hỏi Đa-la [254],

Sai-ma, Diệm, Tiên-ni,

A-nậu-la, Gia chủ,

Tây, mao đoan, Tát-giá. [255]

 


 [1]  Đại, kinh 70. S. 22. 103. Anta.

 [2]  Hữu thân biên 有身邊. Pāli: sakkayānata.

 [3]  Hữu thân diệt biên 有身滅邊. S 22 ibid.: cattāro antā – sakkāyanto, sakkāya-samudayanto, sakkāyanirodhanto, sakkāyanirodhangāminippaṭipadanto, có bốn biên: biên hữu thân, biên tập khởi hữu thân, biên diệt tận hữu thân, biên hành trì dẫn đến diệt tận của hữu thân.

 [4]  Mong rằng trong tương lai ta sẽ như thế này, sẽ như thế kia. Pāli, thành cú: taṇhā ponibhavikā nandirāgasahagatā tatratatrābhinandinī.

 [5]  Đại, kinh 71. Pāli, S.22. 105. Sakkāya.

 [6]  Hữu thân 有身, Pāli: sakkāya.

 [7]  Hữu thân diệt đạo tích 有身滅道跡.

 [8] Hán: phòng la 防.

 [9] Cf. No 26(200) kinh A-lê-tra. Cf. M. i. 40: ayaṃ   vuccati,   bhikkhave, bhikkhu  ukkhittapaligho  itipi, saṃkiṇṇaparikkho itipi, abbūḷhesiko itipi, niraggaḷo itipi, ariyo pannaddhajo pannabhāro visaṃyutto itipi.

 [10] M. ibid.: pañca orambhāgiyāni saṃyojāni pahīnāni honti…bhikkhu niraggaḷo hoti, đoạn trừ năm hạ phần kết, là Tỳ kheo đã tháo chốt cửa.

 [11] M. ibid.: avijjā pahīnā hoti, bikkhu ukkhittapaligho hoti, đaọn trừ vô minh, Tỳ kheo dẹp bỏ các chướng ngại.

 [12] M ibid.: ponobbhaviko jātisaṃsāro pahīno hoti…bhikkhu saṃkiảparikkho hoti, đoạn tận sanh tử đưong lai hữu, Tỳ kheo lấp hào.

 [13] M ibid.: taṇhā pahīnā hoti… bhikkhu abbūḷhesiko, đoạn tận ái, Tỳ kheo đã nhổ cọc.

 [14] M ibid.: asmimāno oahīno hoti… bhikkhu pannaddhajo pannabhāro visaṃyutto hoti, đoạn tận ngã mạn, Tỳ kheo đã hạ cờ, đặt gánh nặng xuống, thoát ly.

 [15] Cf. No 1(10) kinh Thập thượng, mười Thánh cư. Cf. D 33 (iii. 269) Saṅgīti: dasa ariyavāsā.

 [16]  Đại, kinh 72. Pāli, S. 22. 23. Pariññeyya.

 [17]. Sở tri pháp, trí, trí giả 所知法, 智, 智者; pháp cần được nhận thức toàn diện (Pāli: pariññeyya: ưng biến tri); sự nhận thức toàn diện (pariññā: biến tri trí), và người có nhận thức toàn diện.

 [18] Pl.: pariññā, biến tri trí.

 [19] Chư số 諸數.

 [20]  Gánh nặng. Đại, kinh 73. Pāli, S. 22. 22. Bhāra.

 [21]  Trọng đảm, thủ đảm, xả đảm, đảm giả 重擔, 取擔, 捨擔, 擔者. Pāli: bhāra, bhāradāna, bhāranikkhepana, bharahāra.

 [22]  Hán: sĩ phu 士夫; Pāli: puggala (bổ-đặc-già-la)

 [23]  Đại, kinh 74. Pāli, S. 22. 117. Bandhana; 22. 65. Abhinnandamāna.

 [24]  Ma sở hóa 魔所化; đoạn dưới nói là ma sở tác 魔所作.

 [25]  Xem cht. 60 trên.

 [26]  Đại, kinh 75. Pāli, S. 22. 58. Sambuddha.

 [27] Nguyên Hán: Ứng, tức Ứng cúng, tức A-la-hán.

 [28] Pl.: paññāvimutto.

 [29]  Đại, kinh 76. Pāli, S. 22. 118-119. Parimucchita.

 [30]  Đại, kinh 77. Pāli, 22. 25. Chadarāga.

 [31] Dục tham 欲貪. Pāli: chandarāga.

 [32]  Đoạn tri 斷知, hay đoạn biến tri, nhận thức toàn diện về sự đoạn trừ, tức đã đoạn trừ triệt để. Pāli: pahāna-pariññā .

 [33]  Đại, kinh 78. Pāli, S. 22. 30. Uppādaṃ.

 [34]  Đại, kinh 79. Pāli, S. 22. 9-11. Atītānāgatapaccuppanna.

 [35]  Đại, kinh 80.

 [36]  Không, Vô tướng, Vô nguyện: ba tam-muội môn.

 [37]  Đại, kinh 81. Pāli, S. 22. 60. Mahāli.

 [38]  Ly-xa 離車. Pāli, Liccha.

 [39]  Ma-ha-nam 摩訶男. Pāli: Mahānāma. Nhưng S. 22. 60: Mahāli.

 [40] A-kì-ti 阿耆毘. Có lẽ Pāli: ājīvikā, tà mạng ngoại đạo.

 [41]  Phú-lan-na Ca-diếp 富蘭那迦葉. Pāli: Pūraṇa Kassapa.

 [42]  Xuất ý ngữ 出意語. Pāli: adhivitti pada

 [43]  Đại, kinh 82.

 [44]  Đại, kinh 83

 [45]  Đại, kinh 84. Pāli, S. 22. 45. Aniccā.

 [46]  Đại, kinh 85. Pāli, S. 22. 46 Aniccā.

 [47]  Đại, kinh 86.

 [48]  Đại, kinh 87.

 [49] Bản Hán, Đại chánh, hết quyển 3.

 [50] Bản Đại chánh, quyển 2, kinh 33; xem cht.7 kinh 33. Pāli, S. 22. 59. Pañca (Anattalakkhaṇa).

 [51] Hán: diệc bất ưng 亦不應, chép nhầm, dư chữ bất. Cf. S 22 59: labhetha rūpe evaṃ me rūpaṃ hotu, evaṃ me rūpaṃ mā ahosi, ở nơi sắc mà  có thể được rằng “Mong sắc của tôi là thê này. Mong sắc của tôi đừng như thế này.”

 [52] Hán: diệc đắc 亦得; chép thiếu chữ bất.

 [53] Bản Pāli: etaṃ mama eo’ham asmi eso attā ti, cái cày là của tôi; cái này là tôi; cái này là tự ngã của tôi.

 [54] Đại chánh, kinh 34. Pāli, S. 22. 59. Pañca.

 [55] Sắc phi hữu ngã 色非有我. Pāli: rūpaṃ bhikkhave anattā.

 [56] Đại chánh, kinh 35.

 [57] Đây chỉ ba vương tử họ Thích.

 [58] A-nậu-luật-đà 阿 [少/兔]律陀. Pāli: Anuruddha.

 [59] Nan-đề 難提. Pāli: Nandiya.

 [60] Kim-tỳ-la 金毘羅. Pāli: Kimbila.

 [61] Bản Đại chánh, kinh 36. Pāli, S. 22. 43. Attapīpa.

 [62] Tán cai am-la thọ viên 傘蓋菴羅樹園.

 [63] Bạt-đề hà 跋提河.

 [64] Ma-thâu-la 摩偷羅; Pāli: Mathurā. S 22 48: Sāvatthinidānaṃ, nhân duyên ở Xá-vệ.

 [65] Hán: tự châu 自洲. Pāli: attadīpa.

 [66] Hán: tự y 自依. Pāli: attasaraṇā.

 [67] Hán: Pháp châu 法洲. Pāli, dhammadīpa, hòn đảo là pháp.

 [68] Hán: pháp y 法依. Pāli, dhammasaraṇā, nơi nương tựa là pháp.

 [69] Pāli: kiṃjātikā... kiṃpahotikā, do cái gì chúng sanh? Do cái gì chúng hiện?

 [70] Đại chánh, kinh 37. Pāli, S. 22. 94 Puppha (bông hoa), hay Vadha (tăng trưởng)

 [71] Thế gian thế gian pháp 世間世間法. Pāli: loke lokadhammo, pháp thế gian trong thế gian.

 [72] Đại chánh, kinh 34. Pāli, S. 22. 94. Puppha (hay Vadha).

 [73] Kiền-tỳ 揵茨, chủy-chủy-la 匕匕羅, giá-lưu 遮留, tỳ-tất-đa 毘悉多, bà-xà-na 婆闍那, tát-lao 薩牢, không rõ phiên âm từ gì.

 [74] Đại chánh, kinh 39. Pāli, S. 22. 54. Bīja.

 [75] Năm loại giống theo Pāli: mūlabīja, từ rễ; khandhabīja, từ thân, aggabīja, từ cành, hay ngọn, phalubīja, từ đốt; bījabīja, từ hạt giống.

 [76] Pāli: avātāpahatāni, không bị làm hư bởi gió, nóng.

 [77] S 22 54: pathavī ca nāssa āpo ca nāssa, không có đất, và không có nước.

 [78] Tứ thức trụ 四識住. Pāli: catassa vññāṭṭhitiyo.

 [79] Hỷ tham 喜貪. Pāli: nandirāga.

 [80] Tứ thủ 四取. Pāli: cattāri upādāni: kāmūpādānaṃ, diṭṭhūpādānaṃ, sīlabbatūpādānaṃ, attavādūpadānaṃ, dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã ngữ thủ. Xem D. 33. Saīgīti.

 [81] Sắc giới, Pl.: rūpaqdhātu.

 [82] Ư sắc phong trệ 於色封滯. Pāli: rūpupayaṃ, tiếp cận sắc, bị lôi kéo vào sắc, bị phong tỏa, vây khổn bởi sắc.

 [83] Ý sanh, 意生.

 [84] Phan duyên đoạn 攀緣斷. Pāli: vocchijjatārammanaṃ

 [85] Hành giới 行界. Pāli: saṅkhāradhātu.

 [86] Ý sanh 意生.

 [87] Tác hành作行. Pāli: abhisaṅkhāra, hành vi, hành sử, tác động.

 [88] Pāli: viññānaṃ avirūḷhaṃ anabhisaṅkhāraṃ vimuttaṃ, thức không sanh trưởng, không tác hành, được giải phóng.

 [89] Pāli: vimuttattā ṭhitaṃ; ṭhitattā santusitaṃ; santusitattā na paritassati, do giải thoát mà trụ vững, do trụ vững mà thỏa mãn; do thỏa mãn mà không sợ hãi.

 [90] So sánh kinh 55.

 [91] Đại chánh, kinh 40. Pāli, S. 22. 53. Upaya.

 [92] Phong trệ 封滯, phong toả và trì trệ, bị vây khổn. S 22 53. upayo; Sớ giải: upayato ti taṇhāmānadiṭṭhivasena pañcakkhandhe upagato, đó là do thế lục của ái, mạn, kiến mà bị hãm trong năm uẩn.

 [93] Xem kinh 85.

 [94] Đại chánh, kinh 41. S 22. 56: Upādānaparivaṭṭa.

 [95] Chánh hướng 正向; Pāli: sammāpaṭipanno, thực hành chân chánh. S 22 ibid: supaṭipanno, thiện hành, diệu hành, thực hành tốt, thiện xảo.

 [96] S ibid: ye supaṭipannā te imasmiṃ dhammavinaye gādhanti, những ai thực hành chân chánh (khéo thú hướng), những người ấy xác lập trong pháp và luật này.

 [97] Thuần nhất 純一. Pāli: kevalin, con người toàn thiện, đấng Độc tôn.

 [98] Hán: ly tha tự tại 離他自在.

 [99] Khổ biên 苦邊. Pāli: dukkhānta, biên tế của khổ, sự chấm dứt của khổ.

 [100] Thát xứ thiện 七處善: ngũ uẩn cùng với tập, diệt, đạo, vị, hoạn, ly. Pāli: sattaṭṭhānakusala, sự thiện xảo (khéo léo) trong bảy trường hợp.

 [101] Tam quán nghĩa 三觀義: tức ba khoa uẩn, xứ và giới. Pāli: tividhūpaparikkhī, ba phương pháp quán sát. Xem cht. 53 dưới.

 [102] Nguyên Hán: tận盡 ; có lẽ dịch chữ kevalin: thuần nhất, độc nhất. Xem cht. 46 kinh 88.

 [103] Pāli: imasmiṃ dhammavinaye kevalī susitā, ở trong chánh pháp và luật này mà được độc tồn (chỉ A-la-hán), xác lập.

 [104] Hán: nhập.Pāli: dhātuso, āyatanaso, paṭiccasamuppādaso, giới xứ, duyên khởi.

 [105] Chánh phương tiện, tức chánh tinh tấn. Pāli: sammāvayāma.

 [106] Đại chánh, kinh 43. Pāli, S. 22. 7 Upādāparitassanā.

 [107] Hán: thủ cố sanh trước 取故生著. Xem thêm cht. 63 kinh 90. S 22. 7: upādāparitassanaṃ, chấp thủ và kinh sợ (do chấp nên có sợ hãi).

 [108] Ngã... tương tại; Pāli: rūpaṃ attato samanupassati rūpavantaṃ vā attānaṃ, attāni rūpaṃ rūpasmiṃ vā attānaṃ, nó quán sát, sắc là ngã, ngã có sắc, sắc trong ngã, ngã trong sắc.

 [109] Pāli: rūpavipariṭāmānupavatti viññānaṃ, sắc biến chuyển, thức vận chuyển theo.

 [110] S ibid.: paritassanā dhammasamuppādā cittaṃ pariyādāya tiṭṭhanti, sự sợ hãi và sự sanh khởi của các pháp chiếm cứ tâm và cố định nơi tâm. Sớ giải nói: paritassanā dhammasamuppādā ti taṇhāparitassanā ca akusaladhammasamuppādā ca, sự sợ hãi và sự sanh khởi của pháp, đó là sự sợ hãi do khát ái, và sự sanh khởi của pháp bất thiện.

 [111] Tâm loạn, có lẽ Pāli: cetaso pariyādāna (vipariyāsa: điên đảo), tâm bị chiếm cứ.

 [112] Tức do thủ và trước, Pāli: upādāya paritassati, do chấp thủ mà nó sợ hãi. Xem cht. 39 trên.

 [113] Đại chánh, kinh 44. Pāli, S. 22. 8. Upādāparitassanā.

 [114] Hán: sanh tắc hệ trước 生則繫著. Pāli: upādāpritassañ ca, chấp thủ và sợ hãi. Có lẽ trong bản Hán đọc là: uppāda-paritassanā, Xem cht. 42 kinh 89.

 [115] Xem cht. 42 kinh 89.

 [116] Cố niệm 顧念; kinh 89: tâm loạn (?). Pāli: apekkhavā, hy vọng, hoài vọng.

 [117] Nguyên văn Hán: dĩ sanh hệ trước cố. xem cht. 46.

 [118] Đại chánh, kinh 95. Pāli, S. 22. 47. Samanupassanā.

 [119] Sắc tại ngã, ngạ tại sắc 我在色, 色在我, trong các kinh khác, Hán dịch là tương tại. Pāli: attāni vaā rūpaṃ,rūpasmiṃ vā attānaṃ.

 [120] Xúc nhập xứ 觸入處, hay xúc xứ. Pāli: phassāyatana.

 [121] Vô minh xúc 無明觸, Pāli: avijjasamphassa, bị xúc chạm bởi vô minh. S ibid.: avijjāsamphassajena vedayitena phuṭṭhassa puthujjanassa, đối với phàm phu bị xúc chạm bởi cảm thọ phát sanh do sự xúc chạm của vô minh.

 [122] Bị uẩn trong bà đới nhai nuốt. Đai chánh, kinh 46. Pāli, S. 22. 79. Sīha.

 [123] Hán: khả ngại khả phân 可閡可分: có thể bị gây trở ngaị, có thể bị chia chẻ.

 [124] Định nghĩa về sắc, xem Câu-xá 1 (tr. 3b23): “vì nó biến hoại nên nói là sắc.” Pāli: ruppatī’ti kho bhikkhave tasmā rūpan’ ti vuccati, này các Tỳ-kheo, nó não hoại (tức gây tổn hại), do đó nó được nói là sắc.

 [125] S 22. 79 (iii.86): kena ruppati? sītenapi ruppati uṇhenapi ruppati... daṃsa-makasa-(....)-samphassena ruppati, nó bị não hoại bởi cái gì? Nó bị não hoại bởi lạnh, bởi nóng,... bởi sự xúc chạm của muỗi mòng...

 [126] Chư giác tướng 諸覺相. Định nghĩa thọ uẩn, xem Câu-xá 1 ibid.: thọ tức lãnh nạp tùy xúc. S ibid.: vedayatī’ti kho bhikkhave tasmā vedanā ti, nó cảm nhận, do đó nó được nói là thọ.

 [127] Định nghĩa về tưởng thủ uẩn, Câu-xá 1 ibid.: “tưởng thủ tượng vi thể,” tự thể của tưởng là thâu nhận các ấn tượng. Pāli ibid: sañjānātī ‘ti kho bhikkhave tasma saññā ti vuccati, nó tri giác (tri nhận), do đó nó được nói là tưởng.

 [128] Định nghĩa hành uẩn, Pāli ibid.: saṅkhataṃ abhisaṅkharontī’ti kho bhikkhavve saṅkhārā’ ti vuccati, chúng tác thành pháp hữu vi, do đó chúng được nói là các hành.

 [129] Định nghĩa thức uẩn, Câu-xá 1: “thức vị các liễu biệt,” thức là sự nhận thức từng đối tượng cá biệt. Pāli ibid.: vijānātī’ ti kho bhikkhave viññānan’ ti vuccati, nó liễu biệt, do đó nó được gọi là thức.

 [130] Pāli (S.iii. 87): ahaṃ kho etarahi rūpena khajjami, ta ở nơi đây bị sắc nhai nuốt.

 [131] Trong bản Hán: diệt hoạn 滅患.

 [132] Diệt nhi bất tăng, thối nhi bất tiến, diệt nhi bất khởi, xả nhi bất thủ 滅而不增, 退而不進, 滅而不起, 捨而不取. Pāli ibid.: apacināti no ācināti, pajahati na upādiyati, visineti na ussineti, vidhūpeti na sandhūpeti, tổn giản chứ không tích lũy; đoạn trù chứ không chấp thủ; xa lánh chứ không gần gũi; làm mất mùi chứ không xông ướp mùi.

 [133] Đại chánh, kinh 47. Pāli, S.22. 147. Kulaputtena-dukkhā, khổ với thiện gia nam tử.

 [134] Tín tâm thiện nam tử. Pāli: saddhāpabbạitassa kulaputtassa, đối với thiện gia nam tử xuất gia vì tín tâm.

 [135] Đại chánh, kinh 48. Pāli. 22. 147. Kulaputtena-dukkhā.

 [136] Trong bản Hán: đắc l y 得離; trong kinh 93: đắc yểm 得厭.

 [137] Đại chánh, kinh 49. Pāli, S. 22. 37-38. Ānanda.

 [138] S 22 37: katam esam dhammānaṃ uppādo, vayo, īthitassa aññathattaṃ paññāyati, đối với những pháp nào mà sự sanh khởi, diệt hoại diệt, sự biến dị trong khi đình trú được liễu tri?

 [139] Pāli ibid.: rūpassa uppādo… pāññāyati, sự sanh khởi … của sắc được liễu tri.

 [140] Đại chánh, kinh 50. Pāli, S. 22. 37-38. Ānanda.

 [141] Đại chánh kinh 51. Pāli, S. 22. 32. Pabhaṅgu.

 [142] Hoại bất hoại pháp 壞不壞法. Pāli: pabhaṅguṃ ca appabhaṅguṃ ca.

 [143] Pāli ibid.: yo tassa nirodho vūpasamo atthaṅgamo idaṃ appabhaṅgo, sắc ấy diệt tận, tịch tĩnh, tiêu vong, ấy là pháp bất hoại.

 [144] Chưa tìm thấy.

 [145] Đại chánh, kinh 53.

 [146] Thân-thứ lâm 申恕林. Pāli: siṃsapāvana, rừng cây siṃsapā.

 [147] Tát-la tụ lạc 薩羅聚落. āli, có lẽ làng Sālā của người bà-la-môn tại Kosala.

 [148] Câu-tát-la 拘薩羅. Pāli: Kosala.

 [149] Đại chánh, kinh 54.

 [150] Tì-ca-đa-lỗ-ca tụ lạc 毘迦多魯迦聚落. Chưa rõ ở đâu.

 [151] Sắc bản vô chúng色本種. Nên hiểu là chủng loại hay chủng tử?

 [152] Đại chánh, kinh 55. Pāli, S. 22, 48. Khandā.

 [153] Thượng phiền não tâm pháp 上煩惱心法; chỉ các tam sở tùy phiền não.

 [154] Đại chánh, kinh 56

 [155] Trong bản Hán: phi thọ 非受

 [156] Đại chánh, kinh 57. Pāli, S. 22. 81. Pārileyya.

 [157]Chuyện xảy ra khi Phật trú tại Kiều-thưởng-di. Xem No 26(72) Trường Thọ vương bản khởi.

 [158] Hán: tịch diệt, đây chỉ sự tĩnh lặng.

 [159] Bạt-đà-tát-la thị 跋陀薩羅樹. Pāli: bhadhasāla (cây sa-la hiền), một loại cây sa-la,.

 [160] Ba-đà tụ lạc 波陀聚落 Pāli: Pārileyyaka (Hộ lâm), tên một khu rừng được bảo vệ (rakkhitavanasaṇḍo, Sớ giải) tại Kosambi.

 [161] Bán-xà quốc 半闍國. Pāli Pañcala nhưng, Pāli ibid. không đề cập tên nước này.

 [162] Thị giáo lợi hỷ 示教利喜 , thứ tự thuyết pháp của Phật. Pāli: samdassesi samādapesi samuttejasi sampahaṃsesi.

 [163] Pāli: anantarā āsavānaṃ khayo hoti, vô gián lậu tận.

 [164] Hành 行. Pāli: saṅkhāro.

 [165] Nhân, tập, sanh, chuyển 因集生轉, tức bốn hành tướng của Tập đế trong Thánh đế hiện quán (nhân, tập, sanh, duyên) của Hữu bộ; xem Câu xá 23. Pāli: kiṃnidāno kiṃsamudayo kiṃjātiko kiṃpabhavo, cái gì làm duyên do, cái làm tập khởi, cái gì làm phát sanh, cái gì làm chuyển hiện?

 [166] Xúc sanh ái 觸生愛. Pāli (S. iii. 96): avijjāsamphassajena... vedayitena... uppannā taṇhā, khàt ái sanh bởi cảm thọ phát sanh từ sự xúc (chạm) của vô minh.

 [167] Tâm duyên khởi pháp 心綠起法, pháp duyên vào tâm mà khởi. Pāli: aniccaṃ saṅkhataṃ paṭiccasamuppannaṃ, (là pháp) vô thường, hữu vi, duyên khởi.

 [168] Hoại hữu 壞有, tức phi hữu, theo nghĩa hủy diệt, không còn tồn tại. Pāli: vibhava.

 [169] Đại chánh, kinh 58. Pāli, tham chiếu các kinh, S. 22. 82. Puṇṇamā; M. 109. Mahāpuṇṇama-sutta; 110. Cūḷapuṇṇama-sutta.

 [170]S 22. 82: vào ngày Bố-tát (upostha), vào đêm trăng tròn nửa tháng.

 [171] Xúc. Kinh 103 trên nói là chuyển

 [172] Theo kệ tóm tắt ở cưối phẩm, từ đây xuống, thuộc kinh khác, có tên là “Uẩn tức thủ.”

 [173] Thọ 受, tức thủ hay chấp thủ. Pāli: upādāna.

 [174] Pāli: yo tattha chandarāgo taṃ tattha upādānan ti, nơi nào có dục tham, nơi đó có chấp thủ.

 [175] Theo bài kệ tóm tắt cuối phẩm, từ đây trở xuống thuộc kinh khác, gọi là “Kinh hai ấm tương quan.”

 [176] Hán: tương quan 相關, có lẽ là tương ngại 相礙: hai ấm trở ngại nhau. Câu hỏi theo Pāli (S.iii. 101): siyā pana bhante pañcupādānakkhandhesu chandarāga-vemattā ti, có sự sai biệt của dục tham trong năm thủ uẩn chăng? Xem thêm cht. 24 dưới đây.

 [177] Theo kệ tóm tắt, trở xuống thuộc kinh “Danh tự.”

 [178] Câu hỏi theo Pāli ibid.: kittāvatā nu kho khandhanaṃ khandhādhivacanan ti, cho đen mức nào là danh xưng uẩn của các uẩn? Có lẽ câu này trong bản Hán được dịch là “ấm ấm tương quan”?

 [179] Theo kệ tóm tắt, trở xuống là kinh “Nhân duyên.”

 [180] Theo kệ tóm tắt, trở xuống là kinh “Hai vị ngọt.”

 [181] Theo kệ tóm tắt, trở xuống là kinh “Ngã mạn.”

 [182] Ngã mạn 我慢. Ở đây, S ibid.: ahaṃkāra-mamaṃkāra-mānānusaya, ngã, ngã sở và mạn tùy miên.

 [183] Theo kệ tóm tắt, trở xuống là kinh “Không ngã mạn.”

 [184] Theo kệ tóm tắt, trở xuống là kinh “chóng lậu tận.”

 [185] Trong bản Hán: tận đắc; có lẽ chính xác là tật đắc.

 [186] Bản Hán, Đại chánh, hết quyển 2.

 [187]   Đại chánh, quyển 5, kinh 103. Pāli, S. 22. 89. Khema.

 [188]   Câu-xá-di quốc Cù-sư-la viên 拘舍彌國瞿師羅園. Pāli: Kosambī, Ghositārāma.

 [189]   Bạt-đà-lê viên 跋陀梨園. Pāli: Badarikārāma.

 [190]   Sai-ma tỳ kheo 差摩比丘. Pāli: Khema.

 [191]   Đà-sa tỳ kheo 陀娑比丘. Pāli: Dāsaka.

 [192] Cf. S 22 89 (iii. 129): na camhi arahaṃ khīṇāsavo, api ca me pañcasu upādānakkhandhesu asmī ti adhigataṃ, ayam aham asmī ti na ca samanupassāmi, tôi không phải là A-la-hán lậu tận; tuy tôi hiểu rõ tôi đang hiện hữu (tôi là) trong năm thủ uẩn, nhưng tôi không quán sát rằng tôi là cái đó.

 [193] ibid. asmī ti vadasi, kim etaṃ asmī ti? rūpaṃ asmī ti vadasi, aññatra rūpā asmī ti, Thây nói ‘Tôi là’ (=tôi hiện hữu). Thầy nói cái ‘Tôi là’ này là gì? Tôi là sắc chẳng? hay tôi là khác sắc chăng?

 [194] Nguyên Hán: ngã mạn 我慢. Đoan văn lặp lạo, trên kia, dịch là hữu ngã 有我. Pāli: asmī: Tôi (đang) là, tôi hiện hữu.

 [195] Pl. asmī ti vadasi, kimetaṃ asmī ti vadasi, Thầy nói, ‘Tôi đang là (tôi hiện hữu)’. Cái gì là ‘Tôi đang là (tôi hiện hữu)’?

 [196]   Đại chánh, kinh 104. S.22. 85. Yamaka. (焰摩迦)

 [197] Diệm-ma-ca 焰摩迦. Pāli: Yamaka.

 [198] S 22 85 (iii. 135): rūpasmiṃ tathāgato ti, Như lai hiện hữu trong sắc chăng?

 [199]   Phi sắc... 非色. Pāli: arūpaṃ . . .

 [200] S ibid. : ettha ca te āvuso yamaka diṭṭheva dhamme saccato thetato tathāgate anupalabbahiyāmāne, ở chỗ này, ngay trong hiện thực này, Như lai chân thật, thường trú, vượt ngoài khả năng nhận thức.

 [201] Tịch tĩnh, thanh lương, vĩnh một 寂靜清涼永沒.

 [202]   Đại chánh, kinh 105. Pāli, S. 44. 9. Kutūhalasālā.

 [203]   Tiên-ni 仙尼. S 44.9 : Vacchagotto paribbājako, du sĩ (phổ hành sa-môn) dòng họ Vaccha.

 [204] Giá-la-ca 遮羅迦. Pāli: caraka, du hành tăng, hay phổ hành sa-môn. S 44.9: paribbājaka, đồng nghĩa.

 [205]   Hy hữu giảng đường 希有講堂. S 44. 9: Kutūhalasālā.

 [206]   Phú-lan-na Ca-diếp 富蘭那迦葉. Pāli: Pūraṇo Kasapo.

 [207]   S 44. 9 nói ngược lại: được xác nhận: upapattīsu vyākarati: ký thuyết tái sanh nơi nào.

 [208]   Mạt-ca-lê Cù-xá-lợi Tử 末迦梨瞿舍利子. Pāli: Makkhali-Gosāla.

 [209]   Tiên-xà-na-tỳ-la-chi Tử 先闍那毘羅胝子, Pāli; Sañjaya-Belaṭṭhiputta. A-kỳ-đa-xí-xá-khâm-bà-la 阿耆多翅舍欽婆羅, Pāli:Ajita-Kesakambala. Ca-la-câu-đà Ca-chiên-diên 迦羅拘陀迦栴延, Kakudha-Kaccāyana. Ni-kiền-đà-nhã-đề Tử 尼揵陀若提子, Pāli: Nigaṇṭha-Nātaputta.

 [210] S 44. 9 (iv. 399): kathaṃ nāma samanassa gotamassa dhammo abhiññeyyo, pháp của Sa-môn Cù-đàm cần được thấu hiểu như thế nào?

 [211] Pāli, thành cú: alañhi te kaṅkhituṃ, alaṃ vicikicchituṃ. kaṅkhanīye ca pana te ṭhāne vicikicchā uppannā. Thật thích hợp cho ông để hoài nghi ngờ, phân vân. Trong trường hợp có hoài nghi thì phân vân khởi lên

 [212]   Mạn Vô gián đẳng 慢無間等. Xem cht, 16 kinh 36.

 [213]   Trong bản Hán: Tiên-ni xuất gia, chỉ ngoại đạo xuất gia, hay du sĩ (Pāli: paribbājaka) hay tu sĩ ngoại đạo.

 [214]   Đại chánh, kinh 106. Pāli: S. 22. 86. Anurādha.

 [215]   Bản Pāli: vesāliyaṃ mahāvane kūṭāgārasālāyaṃ, ở Vesāli, trong giảng đường Trùng các trong Đại lâm.

 [216]   A-nậu-la-độ 阿 [少/兔]羅度. Pāli: Anurādha.

 [217]   Vô ký 無記 (Pāli: avyākata), thuộc loại không xác định, không được trả lời. S 22 86 (iii. 116): tathāgato aññatra imehi catūhi ṭhānehi paññāpayamāno paññāpeti, Như lai ở ngoài giả thiết với bốn trường hợp ấy.

 [218]   Như lai sở tác 如來所作; có thể do veyyakāraṇa: sự giải thích. Một số vấn đề Phật không giải đáp vì được xem là không thiết thực nhưng rất nhiều vấn đề thiết thực khác được Phật giải đáp.

 [219]   (phi) đẳng thuyết (非)等說.

 [220]   Đại chánh kinh 107. Pāli, S. 22. 1. Nakulapitā.

 [221]. Thiết-thủ-bà-la sơn Lộc dã thâm lâm 設首婆羅山鹿野深林.Pāli: Susuṃmāragira Bhesakalāvana Migadāya.

 [222]   Bạt-kỳ quốc 婆祇國. Pāli: Bhaggesu, ở giữa những người Bhagga.

 [223]   Na-câu-la trưởng giả 那拘羅長者. Pāli: Nakulapitā gahapati, gia chủ, cha của ông Nakula.

 [224]   Pāli: āturakāyassa me sato cittaṃ anāturaṃ bhavissatī ti evañ hi te gahapati sikkhitabban ti, ta có thân bịnh khổ này; tâm ta sẽ không bịnh khổ; cần học tập như vậy.

 [225]   Thị, giáo, chiếu, hỷ, tức Thị, giáo, lợi, hỷ: thứ tự thuyết pháp của Phật.

 [226]   Đại chánh, kinh 108. Pāli, S.22.2 Devadaha.

 [227]. Thích thị Thiên hiện tụ lạc 釋氏天現聚落, Pāli: devadahaṃ nāma sakyānaṃ nigamo, tại làng Devadaha của những người họ Thích.

 [228]   Kiên cố thọ 堅固樹下 , tên cây. Pāli: eḷagalābumba, cây ba-đậu (?)

 [229]   Đầu sợi lông. Đại chánh, kinh 109. Pāli, S. 13. 2. Pokkharaṇī.

 [230]   Cụ túc kiến đế 具足見諦, chỉ sự thấy và chứng bốn Thánh đế. Pāli: diṭṭhisampanna, thành tựu sự thấy, có đầy đủ sự thấy biết về Thánh đế.

 [231]   Vô gián đẳng quả 無間等果, đây chỉ sự thành tựu Thánh đế hiện quán, tức quán sát bốn Thánh đế để chứng quả Dự lưu. Xem cht. 16 kinh 36. Pāli: abhisametāvino. Sớ giải: do tuệ, sau khi hiện quán Thánh đế (aryyasaccāni abhisametvā), vị ấy an trụ

 [232]   Ưu thích ẩn phú, khánh cát bảo tích 憂慼隱覆, 慶吉保惜 ; chưa rõ hết ý nghĩa.

 [233]   Địa nhất thiết nhập xứ chánh thọ 地一切入處正受 , tức biến xứ định về đất; định được tu tập với đối tượng là tính phổ biến của đất. Pāli: paṭhavikasiṇasamādhi.

 [234]   Mười đối tượng (Pāli: kammaṭṭhāna) của biến xứ định (Pāli: kasiṇa-samādhi): đất, nước, lửa, gió, xanh, vàng, đỏ, trắng, hư không vá ánh sáng.

 [235]   Sắc dị ngã 色異我, ở đây Pāli : rūpavantaṃ vā attānam (thấy rằng) tự ngã có sắc; tức là, tự ngã sở hữu sắc như người sở hữu xâu chuỗi ngọc.

 [236] Xem cht. 46 trên.

 [237]. Thứ tự tu tập bảy giác chi: niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định và xả. Pāli: satta sambhojjhaṅgā: satisambojjhaṅgo, dhammvicaya,viriya, pīti, passaddhi, samādhisambhojjhaṅgo.

 [238]   Đại chánh, kinh 110. Pāli, M. 35. Cūḷasaccaka-sutta.

 [239]  Tì-xá-li, Di hầu trì trắc 毘舍離獼猴池側.

 [240]   M 35: một Ni-kiền tử tên là Saccaka.

 [241]   阿濕波誓. Pāli: Assaji, một trong năm tỳ kheo đầu tiên.

 [242]   Tát-giá Ni-kiền Tử 薩遮尼揵子. Pāli: Saccaka Nigaṇthaputt.

 [243]   Hỏa chủng cư sĩ 火種居士. Pāli: Aggivessana, họ của Saccaka.

 [244]   Trú ư thiên trú 住於天住; Pāli: divāvihārāra, an trú ban ngày tức nghỉ trưa, nhưng bản Hán đọc là Deva-vihāra: trú xứ của chứ Thiên.

 [245]   Sắc thị ngã nhân 色是我人. Pāli: rūpattāyaṃ purisapuggalo, con người cá biệt (này) lấy sắc làm tự thể (tự ngã).

 [246]   Pāli: rūpe patiṭṭhāya puññaṃ vā apuññaṃ vā pasavati, do an trú trên sắc mà phước thiện hay phi phước thiện sanh khởi.

 [247]   Pāli: rūpaṃ me attā, sắc là tự ngã của tôi.

 [248] Kim cang lực sĩ quỷ thần 金剛力鬼神. Pāli: vajirapāii yakkho, quỷ Dạ-xoa tay cầm chày kim cang.

 [249]   Đột-mục-khư 突目佉. Pāli: Dummukha.

 [250]   Hán: kiến tích 見跡, hay nói là kiến đạo tích, chỉ vị đang thực hành hướng đến chỗ thấy Thánh đế.

 [251]  Thành tựu ba vô thượng: trí vô thượng, đạo vô thượng, giải thoat vô thượng. Pāli: dassananuttariyena, paṭipadānuttariyena, vimuttānuttariyena, kiến vô thượng, đạo tích (thực hành) vô thượng, giải thoát vô thượng.

 [252]  Giá-ba-lê, Tất-yêm-la-thọ, Đa-tử, Câu-lâu-đà, Ba-la-thọ-trì, Xả-trọng-đảm, Lực sĩ Bảo-quan. Tên các chi-đề, tức các linh miếu (Pāli: cetiya) nổi tiếng ở Vesali. Bản Pāli không nêu danh sách này.

 [253] Bà-tì-đế 婆毘諦.

 [254]   Bỉ Đa-la thập vấn, có lẽ chỉ kinh tương đương Pāli S. 42. 13. Pāṭali, nhưng bản Hán dịch này thiếu. Tham chiếu Đại No 26 (20).

 [255] Bản Hán, hết quyển 5.