22. Tương Ưng bất hoại tịnh, Kinh 801-846

22. TƯƠNG ƯNG BẤT HOẠI TỊNH [1]

KINH 801. LI-XA [2]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong giảng đường Trùng các, bên ao Di hầu tại nước Tì-xá-li.

Bấy giờ có người luyện voi giỏi người Li-xa, tên là Nan-đà, [3] đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi một bên. Bấy giờ, Thế Tôn bảo Li-xa Nan-đà rằng:

“ Thánh đệ tử thành tựu bất hoại tịnh, mà muốn cầu thọ mạng liền được thọ mạng; muốn cầu dung sắc, sức lực, khoái lạc, biện tài, liền được một cách tự tại. Những gì là bốn? Thành tựu Phật bất hoại tịnh; [214a] thành tựu Pháp, Tăng bất hoại tịnh; thành tựu Thánh giới bất hoại tịnh. Ta thấy Thánh đệ tử này sau khi mạng chung ở đây sẽ sinh lên cõi trời, và ở đó được mười pháp. Những gì là mười? Được tuồi thọ cõi trời, sắc đẹp cõi trời, danh xưng cõi trời, khoái lạc cõi trời, tự tại cõi trời và, sắc, thinh, hương, vị, xúc cõi trời. Nếu Thánh đệ tử ở trên trời mạng chung sẽ sinh vào cõi người. Ta thấy người ấy đầy đủ mười điều. Những gì là mười? Được tuổi thọ cõi người, xinh đẹp, danh xưng, khoái lạc, tự tại và, sắc, thinh, hương, vi, xúc cõi người. Ta nói vị đa văn Thánh đệ tử này tín không phải do người khác, ước muốn không phải do người khác, không nghe từ người khác, không lấy ý người khác, tư duy không nhờ vào người khác. Ta nói vị ấy có tri kiến chánh tuệ như thật.”

Bấy giờ, có người đi theo Nan-đà, thưa Nan-đà rằng:

“Giờ tắm đã đến, bây giờ xin Ngài đi cho!”

Nan-đà đáp rằng:

“Nay ta không cần tắm gội theo thế gian, mà nay ta ở trong pháp thắng diệu này tự tắm gội; vì đối với Thế Tôn ta đã có được tín lạc thanh tịnh.”

Người huấn luyện voi Li-xa Nan-đà sau khi nghe những gì Phật đã dạy, hoan hỷ, tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy, làm lễ mà lui.

KINH 802. BẤT BẦN [4]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong giảng đường Trùng các, bên ao Di hầu tại Tì-xá-li. Bấy giớ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Thánh đệ tử nếu thành tựu được bốn bất hoại tịnh, ở giữa loài người không sống cuốc sống nghèo khốn; không bị lạnh rét, xin ăn; mà tự nhiên giàu sang đầy đủ. Những gì là bốn? Thành tựu bất hoại tịnh đối với Phật; thành tựu bất hoại tịnh đối với Pháp, Tăng, và Thánh giới. Cho nên, Tỳ-kheo phải học như vầy: Ta sẽ thành tựu bất hoại tịnh đối với Phật; sẽ thành tựu bất hoại tịnh đối với Pháp, Tăng, và Thánh giới.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 803. CHUYỂN LUÂN VƯƠNG [5]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: 

“Chuyển luân Thánh vương có đầy đủ bảy báu, thành tựu được bốn thứ thần lực trong cõi người, làm vua bốn thiên hạ, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sinh lên cõi trời. Tuy lại làm Chuyển luân Thánh vương có đầy đủ bảy báu, thành tựu đuọc thần lực trong cõi người, làm vua bốn thiên hạ, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sinh lên cõi trời, nhưng vẫn còn chưa đoạn trừ đuọc cái khổ của đường dữ địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh. Vì sao? Chuyển luân vương chưa đạt được bất hoại tịnh đối với Phật, chưa được bất hoại tịnh đối với Pháp, Tăng, và Thánh giới.

„Đa văn Thánh đệ tử mang y phấn tảo, [214b] xin ăn khắp mọi nhà, dùng ngọa cụ bằng cỏ, nhưng các vị đa văn Thánh đệ tử này đã giải thoát được cái khổ của các đường dữ địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh. Vì sao? Các vị đa văn Thánh đệ tử này đã thành tựu được bất hoại tịnh đối với Phật; đã thảnh tựu được bất hoại tịnh đối với Pháp, Tăng, và Thánh giới. Cho nên các Tỳ-kheo phải học như vầy: Ta sẽ thành tựu bất hoại tịnh đối với Phật; sẽ thành tựu bất hoại tịnh đối với Pháp, tăng, và Thánh giới.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 804. TỨ BẤT HOẠI TỊNH [6]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Các ngươi nên khởi lòng thương mến, và lòng từ bi. Đối với những gì các ngươi nói, nếu có người nào thích nghe, thích lãnh thọ, các ngươi hãy vì họ mà nói về bốn bất hoại tịnh, khiến cho chứng nhập, khiến cho an trụ. Những gì là bốn? Bất hoại tịnh đối với Phật; bất hoại tịnh đối với Pháp; bất hoại tịnh đối với Tăng; thành tựu Thánh giới. Vì sao? Nếu nốn đại, đất, nước, lửa, gió có sự thay đổi, tăng giảm, nhưng bốn bất hoại tịnh này chưa từng có sự tăng giảm biến đổi khác. Chúng không tăng giảm biến khác chỉ vì đa văn Thánh đệ tử đã thành tựu được đối với Phật, nên nếu bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, điều này không thể có được. Cho nên, các Tỳ-kheo nên học như vầy: Ta sẽ thành tựu bất hoại tịnh đối với Phật; thành tựu bất hoại tịnh với Pháp, Tăng, thành tựu Thánh giới, và sẽ thiết lập cho người khác cũng được thành tựu.’”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 805. QUÁ HOẠN [7]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu tin người, sinh năm điều lỗi lầm: Hoặc khi người ấy vi phạm giới luật, bị chúng từ bỏ, người tin kính kẻ đó sẽ nghĩ như vầy: ‘Đây là thầy của ta, đã được ta kính trọng, bị chúng Tăng từ bỏ, nay ta còn lý gì để vào chùa tháp này nữa?’ Khi đã không còn vào chùa tháp rồi, sẽ không kính chúng Tăng. Do không kính Tăng, nên không còn nghe được pháp. Do không còn nghe pháp, pháp lành sẽ bị thối mất, không còn được ở lâu trong chánh pháp. Đó gọi là lỗi lầm thứ nhất do tin kính người sinh ra.

“Lại nữa, ai tin kính người, nếu người được kính vi phạm giới luật, bị chúng Tăng cử tội bất kiến, [8] ai tin kính người sẽ nghĩ như vầy: ‘Đây là thầy ta, đã được ta kính [214c] trọng mà nay bị chúng Tăng cử tội bất kiến, nay ta cò lý gì để vào chùa tháp nữa?’ Khi đã không vào chùa tháp rồi, không còn kính chúng Tăng. Do không kính Tăng, nên không còn nghe được pháp. Do không còn nghe pháp, pháp lành sẽ bị thối mất, không còn được ở lâu trong chánh pháp. Đó gọi là lỗi lầm thứ hai do dễ tin kính người sanh ra.

“Lại nữa, người kia nếu đắp y mang bát du hành phương khác, kẻ tin kính người kia sẽ nghĩ như vầy: ‘Người được ta kính, đã đắp y mang bát du hành nhơn gian, nay ta còn lý gì mà vào chùa tháp này nữa? Khi đã không vào chùa tháp rồi, không còn cung kính chúng Tăng. Do không kính Tăng, nên không còn nghe được pháp. Do không còn nghe pháp, pháp lành sẽ bị thối mất, không còn được ở lâu trong chánh pháp. Đó gọi là lỗi lầm thứ ba do dễ tin kính người sanh ra.

“Lại nữa, nếu người được tin kính kia, xả giới hoàn tục, người dễ tin kính người kia sẽ nghĩ như vầy: Ông là thầy ta, được ta kính trọng, đã xả giới hoàn tục, nay ta không nên vào chùa tháp này.’ Khi đã không vào chùa rồi, sẽ không còn kính chúng Tăng. Do không kính Tăng, nên không còn nghe được pháp. Do không còn nghe pháp, pháp lành sẽ bị thối mất, không còn được ở lâu trong chánh pháp. Đó gọi là lỗi lầm thứ tư do dễ tin kính người sanh ra.

“Lại nữa, nếu người được tin kinh kia, thân hoại mạng chung, người dễ tin kính người kia sẽ nghĩ như vầy: ‘Ông là thầy ta, được ta kính trọng, nay đã qua đời; nay ta còn lý gì để vào chùa tháp này nữa?’ Khi đã không còn vào chùa nữa, sẽ không còn kính Tăng. Đó gọi là lỗi lầm thứ năm do dễ tin kính người sanh ra.

“Cho nên, các Tỳ-kheo, phải học như vầy: Ta sẽ thành tựu bất hoại tịnh đối với Phật, bất hoại tịnh đối với Pháp, Tăng, và thành tựu Thánh giới.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 806. THỰC [9]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có bốn loại thức ăn nuôi lớn chúng sanh, nhiếp thọ và làm tăng trưởng bốn đại. Những gì là bốn? Đó là đoàn thực, xúc thực, ý tư thực, và thức thực. Cũng vậy, có bốn thứ phước đức thấm nhuần làm thức ăn an lạc. Những gì là bốn? Bất hoại tịnh đối với Phật; bất hoại tịnh đối Pháp, Tăng, [215a] và thành tựu Thánh giới. Cho nên các Tỳ-kheo phải học như vầy: Ta sẽ thành tựu bất hoại tịnh đối với Phật; bất hoại tịnh đối với Pháp, Tăng, và thành tựu Thánh giới.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 807. GIỚI (10) [10]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Như đã nói ở trên, nhưng có một vài sai biệt:

“Người thành tựu bất hoại tịnh đối với Phật, được nghe pháp, được chúng Tăng hộ niệm, và thành tựu Thánh giới.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 808. GIỚI (2) [11]

Kinh kế này cũng nói như trên, nhưng có một vài sai biệt:

“Nếu thành tựu bất hoại tịnh đối với Phật, Pháp, Tăng, chúng sanh mà bị quấn chắt bởi cáu bẩn của xan tham [12] sẽ lìa được cáu bẩn của xan tham, tại gia mà an trụ giải thoát; tâm thường hành bố thí, thích bố thí, luôn an lạc trong việc thực hành xả thí bình đẳng, thành tựu được Thánh giới.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 809. NHUẬN TRẠCH [13]

Kinh kế này cũng nói như trên, nhưng có một vài sai biệt:

“Thánh đệ tử như vậy có bốn sự thấm nhuần phước đức, [14] thấm nhuần thiện pháp. Công đức nếu được nhiếp thọ, ước lượng, không thể ước lượng được bao nhiêu phước quả, bao nhiêu quả, bao nhiêu phước quả đã tích tập. Phước lợi này quá nhiều đến mức chỉ có thể nói đó là khối tích tụ phước đức lớn. Thí như hợp lưu của năm con sông: Hằng-hà, Da-bồ-na, Tát-la-do, Y-la-bạt-đề, Ma-hê; [15] nước hiệp lưu các con sông này, dù có dùng trăm bình, nghìn bình, trăm nghìn vạn bình, cũng không thể nào đong lường được. Lượng nước này quá nhiều, chỉ có thể nói đó là sự hợp tụ các dòng nước lớn. Cũng vậy Thánh đệ tử đã thành tựu bốn dòng nước thấm nhuần công đức, phước đức ấy không thể ước lượng được là nhiều hay ít. Phước ấy nhiều để chỉ có thể nói đó là khối tích tụ công đức lớn. Cho nên, các Tỳ-kheo, hãy học như vầy: Ta sẽ thành bất hoại tịnh đối với Phật, bất hoại tịnh đối với Pháp, Tăng, và thành tựu Thánh giới.”

Sau đó Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Biển lớn nhiều sự lành,

Sạch mình, sạch vật khác;

Sâu rộng, bình lặng trôi,

Gồm đầy trăm dòng nước.

Tất cả mọi sông rạch,

Đều qui về biển lớn;

Nơi các loài nương sống.

Thân này cũng như vậy,

Tu công đức thí, giới;

Nơi trăm phước qui về.

KINH 810. BÀ-LA-MÔN [16]

 [215b]Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Người Bà-la-môn nói đạo hư dối, ngu si, tà ác, không chân chánh thú hướng, chẳng phải trí đẳng giác hướng đến Niết-bàn. Người ấy giáo hóa đệ tử như vầy: Vào ngày rằm, dùng bột hồ-ma, bột am-la-ma-la tắm gội thân thể, mặc áo kiếp-bối mới, đầu phủ tơ dài, trét phân bò trên đất, mà nằm lên, rồi bảo rằng, ‘Thiện nam tử, buổi mai dậy sớm, cởi áo để ở một chỗ, thân hình trần truồng, chạy nhanh về hướng Đông. Giữa đường giả sử có gặp voi hung, ngựa dữ, trâu điên, chó dại, gai gốc, rừng rậm, hầm hố, nước sâu đi nữa vẫn phải thẳng tiến về phía trước chớ nên tránh. Nếu gặp hại mà chết, quyết sẽ được sinh lên cõi Phạm thiên.’ Đó gọi là ngoại đạo ngu si tà kiến, chẳng phải trí đẳng giác hướng đến Niết-bàn. Ta vì các đệ tử nói về đường chính bằng phẳng chẳng phải ngu si, mà là hướng đến trí tuệ Đẳng giác, hướng đến Niết-bàn. Đó là tám chi Thánh đạo: Chánh kiến… cho đến chánh định.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 811. XÁ-LỢI-PHẤT (1) [17]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Bảo là dòng; [18] thế nào là dòng?”

Xá-lợi-phất bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn! Nói là dòng, đó là nói tám chi Thánh đạo.”

Lại hỏi Xá-lợi-phất:

“Gọi là Nhập lưu phần, [19] vậy thế nào là Nhập lưu phần?”

Xá-lợi-phất bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn! Có bốn Nhập lưu phần. [20] Những gì là bốn? Thân cận thiện sỹ, [21] nghe học chánh pháp, bên trong tư duy chân chánh, thực hành pháp tùy pháp.”

Lại hỏi Xá-lợi-phất:

“Người Nhập lưu [22] phải thành tựu bao nhiêu pháp?”

Xá-lợi-phất bạch Phật rằng:

“Có bốn chi phần mà người Nhập lưu thành tựu. Những gì là bốn? Bất hoại tịnh đối với Phật, bất hoại tịnh đối với Pháp, bất hoại tịnh đối với Tăng, và thành tựu Thánh giới.”

Phật bảo Xá-lợi-phất:

“Như những gì ngươi đã nói, Dòng tức là tám chi Thánh đạo. Nhập lưu phần có bốn pháp là thân cận thiện sỹ, nghe học chánh pháp, bên trong tư duy chân chánh, thực hành pháp tùy pháp. Người Nhập lưu thành tựu bốn pháp, là bất hoại tịnh đối với Phật, bất hoại tịnh đối với Pháp, bất hoại tịnh đối với Tăng, và thành tựu Thánh giới.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng [215c] hành.

KINH 812. XÁ-LỢI-PHẤT (2) [23]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất đi đến chỗ Tôn giả A-nan, sau khi thăm hỏi khích lệ xong, rồi đứng qua một bên, Tôn giả Xá-lợi-phất nói với Tôn giả A-nan:

“Tôi có điều muốn hỏi, Tôn giả có rảnh thì giờ trả lời cho không?”

Tôn giả A-nan Bạch Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Theo ý Tôn giả cứ hỏi, nếu biết tôi sẽ đáp.”

Xá-lợi-phất hỏi Tôn giả A-nan:

“Do đoạn được bao nhiêu pháp, mà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, bậc Tri giả, Kiến giả, ký thuyết rằng người kia đắc Tu-đà-hoàn, không đọa vào pháp đường dữ, quyết định huớng đến chánh giác, chỉ còn bảy lần qua lại trời người, rốt ráo thoát khổ?”

Tôn giả A-nan Bạch Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Dò đoạn được bốn pháp và thành tựu được bốn pháp mà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác ký thuyết cho người kia đắc Tu-đà-hoàn, không còn đọa vào pháp đường dữ, quyết định hướng đến Chánh giác, chỉ còn bảy lần qua lại trời người, mới rốt ráo hết khổ. Những gì là bốn? Thánh đệ tử trụ tâm bất tín đối với Phật đã được đoạn, đã biến tri, thành tựu bất hoại tịnh đối với Phật. Bất tín đối với Pháp, Tăng và ác giới đã đoạn, đã biến tri, thành tựu bất hoại tịnh đối với đối với Pháp, Tăng, và thành tựu được Thánh giới. Như vậy, do đoạn trừ bốn pháp, và thành tựu bốn pháp mà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, bận Tri giả, Kiến giả, ký thuyết cho người kia đắc Tu-đà-hoàn, không đọa vào pháp đường dữ, quyết định hướng đến Chánh giác, chỉ còn bảy lần qua lại trời người, mới rốt ráo thoát khổ.”

Tôn giả A-nan Bạch Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Đúng vậy, đúng vậy! Do đoạn trừ được bốn pháp, và thành tựu được bốn pháp mà Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, bậc Tri giả, Kiến giả, ký thuyết cho người kia đắc Tu-đà-hoàn, không đọa vào pháp đường dữ, quyết định hướng đến Chánh giác, chỉ còn bảy lần qua lại trời người, rốt ráo thoát khổ.”

Sau khi hai vị chánh sĩ luận bàn xong, đều tùy hỷ từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.

KINH 813. KHỦNG BỐ (1) [24]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Tỳ-kheo dập tắt được năm sợ hãi và oán thù, [25] được ba pháp quyết định, chẳng sanh nghi hoặc, tri kiến như thật về chánh đạo Hiền Thánh; vị Thánh đệ tử này có thể tự ký thuyết rằng đã diệt tận các đường dữ địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh, đắc Tu-đà-hoàn, không còn bị rơi vào pháp đường dữ, hướng thằng đến Chánh giác, chì còn bảy lần qua lại trời người, rốt ráo thoát khổ.

 [216a] “Thế nào là dập tắt năm điều sợ hãi và oán thù? Nếu sợ hãi, oán thù phát sanh do nhân duyên tội sát sinh; người ấy tránh xa sự sát sinh; sợ hãi, oán thù phát sanh do nhân duyên tội sát sinh được dập tắt. Nếu sợ hãi, oán thù phát sanh do nhân duyên tội trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu; người ấy tránh xa trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu; sợ hãi, oán thù phát sanh do nhân duyên tội trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu được dập tắt. Đó gọi là sự chấm dứt năm điều sợ hãi, oán thù phát sanh do nhân duyên các tội trên.  

“Thế nào là ba pháp quyết định không sanh ra nghi hoặc? Đối với Phật quyết định lìa nghi hoặc, đối với Pháp, và Tăng quyết định lìa nghi hoặc. Đó gọi là ba pháp quyết định lìa nghi hoặc.

“Thế nào gọi là tri kiến như thật về Thánh đạo? Biết như thật đây là Khổ thánh đế, biết như thật đây là Khổ Tập thánh đế, Khổ Diệt thánh đế, Khổ diệt đạo tích thánh đế. Đó gọi là tri kiến như thật về Thánh đạo.

“Nếu đối với năm tội sợ hãi, oán thù này mà đựợc dập tắt, đối với ba pháp quyết định xa lìa nghi hoặc, đối với Thánh đạo mà tri kiến như thật; Thánh đệ tử này có thể tự ký thuyết rằng: ‘Ta đã đoạn tận các đường dữ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, đắc Tu-đà-hoàn, không còn bị đọa vào pháp đường dữ, quyết định hướng thẳng đến Chánh giác, chỉ còn bảy lần qua lại trời người, rốt ráo thoát khổ.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 814. KHỦNG BỐ (2) [26]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Như đã nói ở trên, nhưng có một vài sai biệt:

“Thế nào là tri kiến như thật về Thánh đạo? Tám Thánh đạo, từ Chánh kiến … cho đến Chánh định.”

Kinh tiếp cũng nói như vậy, nhưng có một vài sai khác:

“Thế nào là tri kiến như thật về Thánh đạo? Tri kiến như thật về mười hai duyên khởi như đã nói: sự này có, nên sự này có; sư này khởi, nên sự này khởi. Như duyên vô minh có hành, duyên hành có thức, duyên thức có danh sắc, duyên danh sắc có sáu nhập xứ, duyên sáu nhập xứ có xúc, duyên xúc có thọ, duyên thọ có ái, duyên ái có thủ, duyên thủ có hữu, duyên hữu có sanh, duyên sanh có lão, bệnh, tử, ưu bi, khổ não. Đó gọi là tri kiến như thật của các Thánh đệ tử.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 815. THIÊN ĐẠO (1) [27]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có bốn thiên đạo của chư thiên [28] [216b] làm cho chúng sanh chưa tịnh khiến tịnh, đã tịnh, lại tịnh hơn. Những gì là bốn? Thánh đệ tử có bất hoại đối tịnh với Phật, có bất hoại tịnh đối với Pháp, Tăng, và thành tựu Thánh giới. Đo gọi là bốn thiên đạo của chư thiên làm cho chúng sanh chưa tịnh khiến cho tịnh, đã tịnh lại khiến cho tịnh hơn.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 816. THIÊN ĐẠO (2) [29]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có bốn thiên đạo của chư thiên. Những gì là bốn? Thánh đệ tử niệm tưởng Như Lai sự [30] như vầy: ‘Như Lai là đấng Ứng cúng, Đảng chánh giác, Minh Hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế tôn. Đối với Như Lai sự này mà sanh tâm tùy hỷ. Do tùy hỷ, tâm hân hoan; do tâm hân hoan, thân khinh an; [31] do thân khinh an, có cảm thọ lạc; do có cảm thọ lạc, được định tam-muội; do định tam-muội, Thánh đệ tử học như vầy: ‘Thế nào là thiên đạo của chư thiên?’ Và lại suy nghĩ: ‘Ta đã từng nghe không sân nhuế là thiên đạo trên hết của chư thiên.’ Rồi lại nghĩ: ‘Đối với thế gian, kể từ hôm nay dù ta gặp hoặc sợ hãi, hoặc an ổn, cũng không nổi sân giận; ta chỉ tự chọn cho mình thiên đạo hoàn tòan thanh tịnh thuần nhất của chư thiên.’ Đó gọi là thiên đạo đệ nhất của chư thiên làm cho chúng sanh chưa tịnh khiến tịnh, đã tịnh rồi lại khiến tịnh hơn.

“Lại nữa, Tỳ-kheo, Thánh đệ tử niệm tưởng Pháp sự như vầy: Chánh pháp luật được Như Lai tuyên thuyết, ngay đời hiện tại xa lìa mọi thứ thiêu đốt, không đợi thời tiết, thông đạt Niết-bàn, tự thân quán sát, duyên nơi tự mình mà giác tri. Do biết Pháp sự như vậy rồi, tâm sanh tùy hỷ. Do tùy hỷ, tâm hân hoan; do tâm hân hoan, thân khinh an; do thân khinh an, có cảm thọ lạc; do có cảm thọ lạc, được định tam-muội; do định tam-muội, Thánh đệ tử học như vầy: ‘Thế nào là thiên đạo của chư thiên?’ Và lại suy nghĩ: ‘Ta đã từng nghe, không sân nhuế là thiên đạo trên hết của chư thiên.’ Rồi lại nghĩ: ‘Đối với thế gian, từ hôm nay dù ta gặp hoặc sợ hãi, hoặc an ổn, cũng không nổi sân giận; ta chỉ tự chọn cho mình thiên đạo hoàn tòan thanh tịnh thuần nhất của chư thiên.’ Đó gọi là thiên đạo thứ hai của chư thiên làm cho chúng sanh chưa tịnh khiến tịnh, đã tịnh rồi lại khiến tịnh hơn.

 “Lại nữa, Tỳ-kheo, đối với Tăng sự, khởi chánh niệm như vầy: ‘Tăng đệ tử của Thế Tôn, chánh trực thú hướng, đáng được cung kính tôn trọng cúng dường, là ruộng phước vô thượng.’ Vị ấy chân chnh suy niệm Tăng sự như vậy, liền sanh tâm tùy hỷ. Do tùy hỷ, tâm hân hoan; do tâm hân hoan, thân khinh an; [216c] do thân khinh an, có cảm thọ lạc; do có cảm thọ lạc, được định tam-muội; do định tam-muội, Thánh đệ tử học như vầy: ‘Thế nào là thiên đạo của chư thiên?’ Và lại suy nghĩ: ‘Ta đã từng nghe, không sân nhuế là thiên đạo trên hết của chư thiên.’ Rồi lại nghĩ: ‘Đối với thế gian, từ hôm nay dù ta gặp hoặc sợ hãi, hoặc an ổn, cũng không nổi sân giận; ta chỉ tự chọn cho mình thiên đạo hoàn tòan thanh tịnh thuần nhất của chư thiên.’ Đó gọi là thiên đạo thứ hai của chư thiên làm cho chúng sanh chưa tịnh khiến tịnh, đã tịnh rồi lại khiến tịnh hơn.

“Lại nữa, Thánh đệ tử tự nghĩ về những Giới sự đã có, suy niệm nhớ nghĩ rằng: ‘Giới này của ta là giới không khuyết, giới không ô uế, giới không tạp; giới mà bậc minh trí tán thán; giới mà kẻ trí không chán.’ Đối với những giới sự như vậy, sau khi đã thật sự nhớ nghĩ đến rồi, tâm sanh tùy hỷ. Do tùy hỷ, tâm hân hoan; do tâm hân hoan, thân khinh an; do thân khinh an, có cảm thọ lạc; do có cảm thọ lạc, được định tam-muội; do định tam-muội, Thánh đệ tử học như vầy: ‘Thế nào là thiên đạo của chư thiên?’ Và lại suy nghĩ: ‘Ta đã từng nghe không sân nhuế là thiên đạo trên hết của chư thiên.’ Rồi lại nghĩ: ‘Đối với thế gian, từ hôm nay dù ta gặp hoặc sợ hãi, hoặc an ổn, cũng không nổi sân giận; ta chỉ tự chọn cho mình thiên đạo hoàn tòan thanh tịnh thuần nhất của chư thiên.’ Đó gọi là thiên đạo thứ hai của chư thiên làm cho chúng sanh chưa tịnh khiến tịnh, đã tịnh rồi lại khiến tịnh hơn.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 817. THIÊN ĐẠO (3) [32]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có bốn thiên đạo của chư thiên. Những gì là bốn? Thánh đệ tử niệm tưởng Như Lai sự như vầy: ‘Như Lai là đấng Ứng cúng, Đẳng chánh giác, Minh Hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế tôn. Vị ấy niệm tưởng Như Lai sự như vậy rồi, liền đoạn trừ tham ác, và đoạn trừ lỗi tâm ác bất thiện của tâm. Vì nghĩ đến Như Lai nên sanh tâm tùy hỷ; do tùy hỷ, tâm hân hoan; do tâm hân hoan, thân khinh an; do thân khinh an, có cảm thọ lạc; do có cảm thọ lạc, được định tam-muội; do định tam-muội, Thánh đệ tử học như vầy: ‘Thế nào là thiên đạo của chư thiên?’ Và lại suy nghĩ: ‘Ta đã từng nghe không sân nhuế là thiên đạo trên hết của chư thiên.’ Rồi lại nghĩ: ‘Đối với thế gian, từ hôm nay dù ta gặp hoặc sợ hãi, hoặc an ổn, cũng không nổi sân giận; ta chỉ tự chọn cho mình thiên đạo hoàn tòan thanh tịnh thuần nhất của chư thiên.’ Đó gọi là thiên đạo thứ hai của chư thiên làm cho chúng sanh chưa tịnh khiến tịnh, đã tịnh rồi lại khiến tịnh hơn.. Cũng vậy, đối với Pháp, Tăng và thành tựu Thánh giới cũng nói như vậy.”

 [217a] Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 818. THIÊN ĐẠO (4) [33]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có bốn thiên đạo của chư thiên. Những gì là bốn? Thánh đệ tử niệm tưởng Như Lai sự như vầy: ‘Như Lai là đấng Ứng cúng, Đẳng chánh giác, Minh Hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế tôn. Vị Thánh đệ tử ấy niệm tưởng Như Lai sự như vậy rồi, tâm không bị tham dục triền phược, sân hận, ngu si triền phược. Tâm ấy chánh trực, niệm tưởng Như Lai sự. Thánh dệ tử này được dòng nước pháp, được dòng nước của nghĩa, [34] được tùy hỷ lợi ích do niệm tưởng Như Lai. [35] Do tùy hỷ, tâm hân hoan; do tâm hân hoan, thân khinh an; do thân khinh an, có cảm giác thọ lạc; do có cảm giác thọ lạc, được định tam-muội; do định tam-muội, Thánh đệ tử học như vầy: ‘Thế nào là thiên đạo của chư thiên?’ Và lại suy nghĩ: ‘Ta đã từng nghe không sân nhuế là thiên đạo trên hết của chư thiên.’ Rồi lại nghĩ: ‘Đối với thế gian, từ hôm nay dù ta gặp hoặc sợ hãi, hoặc an ổn, cũng không nổi sân giận; ta chỉ tự chọn cho mình thiên đạo hoàn tòan thanh tịnh thuần nhất của chư thiên.’ Đó gọi là thiên đạo thứ hai của chư thiên làm cho chúng sanh chưa tịnh khiến tịnh, đã tịnh rồi lại khiến tịnh hơn. Cũng vậy, đối với Pháp, Tăng và thành tựu Thánh giới cũng nói như vậy.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 819. PHÁP KÍNH (1) [36]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nay Ta sẽ nói kinh Pháp kính. [37] Hãy lắng nghe và suy nghĩ cho kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà nói. Thế nào là kinh Pháp kính? Thánh đệ tử có bất hoại tịnh đối với Phật, có bất hoại tịnh đối với Pháp, Tăng và, thành tựu Thánh giới. Đó gọi là kinh Pháp kính.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 820. PHÁP KÍNH (2) [38]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. [39] Bấy giờ một số đông các Tỳ-kheo đắp y mang bát vào thành Xá-vệ khất thực. Trong khi khất thực nghe tin Tỳ-kheo Nan-đồ, [217b] Tỳ-kheo-ni Nan-đà, Ưu-bà-tắc Thiện Sanh, và Ưu-bà-di Thiện Sanh [40] đều qua đời. Sau khi khất thực xong trờ về Tinh xá cất y bát và rửa chân xong, đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân, rồi ngồi qua một bên, bạch Phật:

“Thau Thế Tôn! Sáng sớm hôm nay con vào thành Xá-vệ khất thực, nghe tin Tỳ-kheo Nan-đồ, Tỳ-kheo-ni Nan-đề, Ưu-bà-tắc Thiện Sanh, và Ưu-bà-di Thiện Sanh đều đã qua đời. Bạch Thế Tôn! Vậy bốn vị này sau khi qua đời, họ sẽ sinh về nơi nào?”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Tỳ-kheo Nan-đồ và Tỳ-kheo-ni Nan-đà vì đã diệt tận các lậu nên đã được vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát; ngay trong đời này tự tri tự tác chứng, tưi biết rằng ‘Ta, sự sanh đã hết, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, không còn tái sinh đời sau nữa.’ Còn Ưu-bà-tắc Thiện Sanh và Ưu-bà-di Thiện Sanh vì năm hạ phần kết đã hết nên đắc A-na-hàm, sinh lên cõi trời mà vào Bát-niết-bàn, không còn sinh vào cõi này nữa.”

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nay Ta sẽ nói kinh Pháp kính.... Thánh đệ tử có bất hoại tịnh đối với Phật,... thành tựu Thánh giới. Đó gọi là kinh Pháp kính.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 821. PHÁP KÍNH (3) [41]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ.

Như đã nói đầy đủ ở trên, nhưng có một vài sai biệt: Có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni kia, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di kia qua đời, cũng nói như trên.” [42]

KINH 822. NA-LÊ-CA [43]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong Tinh xá Phồn-kỳ-ca tại tụ lạc Na-lê-ca. [44] Bấy giờ ở đây có nhiều người qua đời.

Lúc ấy, có các Tỳ-kheo đắp y mang bát vào tụ lạc Na-lê-ca khất thực, nghe tin ở tụ lạc Na-lê-ca các Ưu-bà-tắc Kế-ca-xá, và Ni-ca-tra, Khư-lăng-ca-la, Ca-đa-lê sa-bà, Xà-lộ, Ưu-ba-xà-lộ, Lê-sắc-tra, A-lê-sắc-tra, Bạt-đà-la, Tu-bạt-đà-la, Da-xá, Da-du-đà, Da-xá, Uất-đa-la Ưu-bà-tắc Kế-ca-xá, và Ni-ca-tra, Khư-lăng-ca-la, Ca-đa-lê sa-bà, Xà-lộ, Ưu-ba-xà-lộ, Lê-sắc-tra, A-lê-sắc-tra, Bạt-đà-la, Tu-bạt-đà-la, Da-xá, Da-du-đà, Da-xá, Uất-đa-la [45] tất cả đều qua đời tại đây. Sau khi nghe tin này, họ trở về tinh xá, cất y bát rửa chân xong, đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật rằng:

“Sáng sớm số đông các Tỳ-kheo chúng con vào tụ lạc Na-lê-ca khất thực, nghe tin Ưu-bà-tắc Kế-ca-xá và nhiều người qua đời. Bạch Thế Tôn, những người này sau khi qua đời, họ sẽ sinh về nơi nào? “

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Kế-ca-xá và những người kia, đã đoạn năm hạ phần kết, đắc A-na-hàm, vào Bát-niết-bàn ở trên trời, không sinh lại cõi này nữa.”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, lại có hơn hai trăm năm mươi vị Ưu-bà-tắc đã qua đời, và lại có năm trăm Ưu-bà-tắc tại tụ lạc Na-lê-ca này qua đời?”

“Tất cả đều dứt hết năm hạ phần kết, đắc A-na-hàm, vào Bát-niết-bàn ở trên cõi trời kia, không còn sanh trở lại [217c] đời này nữa.

“Lại có hơn hai trăm năm mươi vị Ưu-bà-tắc qua đời đều dứt hế ba kết, tham, nhuế, và si mỏng, đắc Tư-đà-hàm, sẽ chịu một lần sinh, mới rốt ráo thoát khổ.

“Tại tụ lạc Na-lê-ca này lại có năm trăm Ưu-bà-tắc qua đời tại tụ lạc Na-lê-ca này, đã dứt hết ba kết, đắc Tu-đà-hoàn, không còn đọa vào pháp đường dữ, quyết định hướng đến Chánh giác, chỉ còn bảy lần qua lại trời người rốt ráo thoát khổ.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Các ngươi theo người này qua đời, người kia qua đời mà hỏi, thật là phiền nhọc. Chẳng phải là điều Như Lai muốn trả lời. Phàm có sinh thì có tử, có gì là lạ? Dù Như Lai có ra đời hay chẳng ra đời, pháp tánh vẫn thường trụ, điều đó Như Lai tự chứng tri, thành Đẳng chánh giác, hiển bày, diễn nói, phân biệt, chỉ dạy, rằng: Cái này có nên cái kia có; cái này khởi nên cái kia khởi; do duyên vô minh nên có hành, … cho đến do duyên sinh nên có già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não, và tập khởi khổ uẩn như vậy. Vô minh diệt thì hành diệt, … cho đến sinh diệt thì già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não diệt, khổ uẩn bị diệt như vậy.

“Nay Ta sẽ vì các ngươi nói về kinh Pháp kính. Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ngươi giảng nói. Thế nào là kinh Pháp kính? Thánh đệ tử có bất hoại tịnh đối với Phật, có bất hoại tịnh đối với Pháp, Tăng và, thành tựu Thánh giới. Đó gọi là kinh Pháp kính.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 823. NAN-ĐỀ (1) [46]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ có Ưu-bà-tắc Nan-đề [47] đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, Thánh đệ tử đối với năm căn, mà trong tất cả thời đều không thành tựu, đó là do phóng dật hay chẳng phóng dật?”

Phật bảo Nan-đề:

“Đối với năm căn này, nếu trong tất cả thời đều không thành tựu, Ta nói họ thuộc vào hạng phàm phu. Nếu Thánh đệ tử mà không thành tựu, đó là người phóng dật chứ chẳng phải không phóng dật.

“Này Nan-đề, Thánh đệ tử đã thành tựu bất hoại tịnh đối với Phật mà không cầu hướng thượng, không ở trong rừng vắng, hoặc ngồi nơi đất trống, ngày đêm thiền tịnh tư duy, tinh cần tu tập, để được thắng diệu xuất ly, người đó không được lợi ích tùy hỷ. Do không tùy hỷ, hoan hỷ không sanh. Do hoan hỷ không sanh, thân không khinh an. Do thân không khinh an, cảm giác khổ phát sanh. Do cảm giác khổ phát sanh, tâm không được định. Tâm không định, Thánh đệ tử  [218a] ấy được gọi là phóng dật. Thành tựu bất hoại tịnh đối với Pháp, Tăng và thành tựu Thánh giới cũng nói như vậy.

“Như vậy, Nan-đề, nếu Thánh đệ tử đã thành tựu bất hoại tịnh đối với Phật, mà tâm không khởi tưởng thỏa mãn, ở trong rừng vắng, dưới bóng cây, nơi đất vắng, ngày đêm thiền định tư duy, phương tiện tinh tấn, hay khởi thắng diệu xuất ly, được tùy hỷ; do được tùy hỷ, hoan hỷ phát sanh; do hoan hỷ sanh, thân khinh an; do thân khinh an, có cảm giác thọ lạc; do có cảm giác thọ lạc, tâm được định. Thánh đệ tử tâm định được gọi là không phóng dật. Thành tựu bất hoại tịnh đối với Pháp, Tăng, và thành tựu Thánh giới cũng nói như vậy.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, Ưu-bà-tắc Nan-đề nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ sát chân Phật rồi lui.

KINH 824. NAN-ĐỀ (2) [48]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ có Thích thị Nan-đề [49] đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, Thánh đệ tử đối với bốn bất hoại tịnh, trong tất cả thời, không thành tựu, vậy Thánh đệ tử này là phóng dật hay chẳng phóng dật?” [50]

Phật bảo Thích thị Nan-đề:

“Nếu đối với bốn bất hoại tinh mà không lúc nào thành tựu, Ta bảo đó là những kẻ thuộc ngoài hạng phàm phu.” [51]

“Này Thích Nan-đề, Thánh đệ tử hoặc phóng dật hay không phóng dật. Nay Ta sẽ nói...” chi tiết đầy đủ như trên.

Phật nói kinh này xong, Thích Nan-đề sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy làm lễ rồi lui.

KINH 825. NAN-ĐỀ (3) [52]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ an cư ba tháng đầu hạ [53] đã xong, có số đông các Tỳ-kheo, tập trung tại nhà ăn may y cho Phật. Không bao lâu khi y may xong, Như Lai sẽ đắp y mang bát ra khỏi tinh xá du hành trong nhơn gian.

Bấy giờ, Thích thị Nan-đề nghe số đông các Tỳ-kheo, tập trung tại nhà ăn may y cho Phật, không bao lâu khi y may xong, Như Lai sẽ đắp y mang bát ra khỏi tinh xá du hành trong nhơn gian. Thích thị Nan-đề nghe tin như vậy, bèn đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật rằng:

“Hôm nay tứ chi thân thể con rã rời, bốn phương đổi thay. Những pháp con đã nghe trước kia, nay tất cả đều mịt mờ, quên hết, khi nghe các Tỳ-kheo tập trung tại nhà ăn may y cho Thế Tôn nói: ‘Không bao lâu, khi nào may y xong, Như Lai sẽ đắp y mang bát du hành trong nhơn gian.’ Cho nên nay tâm con cảm thấy rất khổ đau vì không biết lúc nào sẽ gặp lại được Thế Tôn cùng các Tỳ-kheo tri thức?”

Phật bảo Thích thị Nan-đề:

“Dù có gặp Phật hay không gặp Phật, dù có gặp Tỳ-kheo tri thức hay không gặp, ngươi vẫn nên tùy thời tu tập năm điều hoan hỷ. Những gì là năm? Người nên tùy thời niệm tưởng Như Lai sự: ‘Như Lai là đấng Ứng cúng, Đẳng chánh giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự Trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế tôn.’ Niệm tưởng Pháp sự, Tăng sự, tự mình giữ giới sự cùng hành thế sự. Người hãy tùy thời nhớ nghĩ là: ‘Ta đã được lợi cho mình. Đối với những cáu bẩn xan tham của chúng sanh, ta sẽ tu tập nhiều để dứt lìa cáu bẩn của xan tham, sống tại gia mà tu giải thoát thí, [54] bố thí xả, luôn luôn bố thí nhiệt tình, vui thích xả, huệ thí bình đẳng, tâm luôn nhớ đến việc bố thí.’ Như vậy, Thích thị Nan-đề, năm chi định này hoặc đứng, đi, ngồi, nằm cho đến cùng với vợ con, luôn luôn phải buộc niệm tam-muội này.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, Thích thị Nan-đề nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ tùy hỷ, làm lễ mà lui.

KINH 826. NAN-ĐỀ (4) [55]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ, kết an cư ba tháng đầu hạ. [56] Bấy giờ có Thích thị Nan-đề nghe Phật kết an cư ba tháng đầu hạ ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-ve. [57] Sau khi nghe vậy, ông liền nghĩ: ‘Ta nên đến đó. Tại đó cúng dường và làm mọi công việc để phụng sự Như Lai cùng Tỳ-kheo Tăng.’ Ông liền đến đó. Sau ba tháng, bấy giờ, số đông các Tỳ-kheo tập trung tại nhà ăn may y cho Thế Tôn và nói với nhau rằng: ‘Như Lai không bao lâu sau khi may y xong sẽ đắp y mang bát du hành trong nhơn gian.’

 Thích thị Nan-đề nghe các Tỳ-kheo tập trung tại nhà ăn nói, ‘Như Lai không bao lâu sau khi may y xong sẽ đắp y mang bát du hành trong nhơn gian.’ Sau khi nghe tin này, ông đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, hôm nay toàn thân thể con rã rời, bốn phương thay đổi; những pháp con đã nghe trước đây, nay tất cả đều mờ mịt, quên hết. Con nghe Thế Tôn du hành trong nhơn gian, con không biết bao giờ sẽ gặp lại Thế Tôn cùng các Tỳ-kheo tri thức?”

Phật bảo Thích thị Nan-đề:

“Dù có gặp Như Lai hay chẳng gặp, dù có gặp Tỳ-kheo tri thức hay chẳng gặp, ngươi cũng nên tùy thời mà tu tập về sáu niệm. Những gì là sáu niệm? Hãy niệm Như Lai sự, Pháp sự, Tăng sự, giới mình đã giữ, việc hành thí của nình, niệm chư thiên.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, Thích thị Nan-đề nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ tùy hỷ, đảnh [218b] lễ mà lui.

KINH 827. LÊ-SƯ-ĐẠT-ĐA [58]

Tôi nghe như vầy:

 Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ, kết tiền tam nguyệt hạ an cư, như nói ở trước, nhưng có một vài sai biệt:

“Bấy giờ gia chủ tên là Lê-sư-đạt-đa [59] và Phú-lan-na. [60] Hai anh em nghe các Tỳ-kheo tập trung tại nhà ăn, may y cho Thế Tôn…” như kinh Nan-đề đã nói đầy đủ ở trên.

Sau khi Phật nói kinh này xong, gia chủ Lê-sư-đạt-đa và Phú-lan-na nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ mà lui.

KINH 828. ĐIỀN NGHIỆP [61]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ, kết an cư ba tháng đầu hạ xong, các Tỳ-kheo tập trung tại nhà ăn may y cho Thế Tôn. Bấy giờ có gia chủ Lê-sư-đạt-đa cùng Phú-lan-na, [62] hai anh em đang quản trị nông vụ ở trong đầm Lộc kính, [63] nghe số đông các Tỳ-kheo ở tại nhà ăn may y cho Thế Tôn nói rằng: ‘Như Lai không bao lâu sau khi may y xong sẽ đắp y mang bát du hành trong nhơn gian.’ Sau khi nghe tin này, họ bảo một người đàn ông rằng: „Nay ông hãy đến chỗ Thế Tôn, xem Thế Tôn nếu đã đi rồi, hãy nhanh chóng trở về báo cho ta hay.“

Người đàn ông kia vâng lời, đi đến một chỗ kia gặp Thế Tôn đang ra đi, liền vội vàng trở về báo cho Lê-sư-đạt-đa cùng Phú-lan-na là „Thế Tôn và đại chúng đang đến.“

Bấy giờ, Lê-sư-đạt-đa cùng Phú-lan-na đi nghinh đón Thế Tôn. Thế Tôn từ xa nhìn thấy Lê-sư-đạt-đa cùng Phú-lan-na theo con đường đang đi đến, liền ra ngoài lề đường trải tọa cụ, ngồi ngay thẳng. Lê-sư-đạt-đa cùng Phú-lan-na đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, hôm nay toàn thân thể con rã rời, bốn phương đổi dời; tất cả mọi ức niệm, nay đều mờ mịt quên hết; không biết lúc nào sẽ được gặp lại Phật cùng các Tỳ-kheo tri thức? Hôm nay Thế Tôn ra đi đến Câu-tát-la; từ Câu-tát-la đến Già-thi; từ Già-thi đến Ma-la; từ Ma-la đến Ma-kiệt-đà; từ Ma-kiệt-đà đến Ương-già, từ Ương-già đến Tu-ma; từ Tu-ma đến Phân-đà-la; từ Phân-đà-la đến Ca-lăng-già. [64] Cho nên hôm nay con vô cùng khổ não, không biết lúc nào được gặp lại Thế Tôn cùng các Tỳ-kheo tri thức.”

Phật bảo [219a] Lê-sư-đạt-đa cùng Phú-lan-na:

“Các ngươi dù có gặp Như Lai hay chẳng gặp Như Lai, dù có gặp các Tỳ-kheo tri thức hay chẳng gặp, các người cũng nên tùy thời mà tu tập sáu niệm. Những gì là sáu niệm? Các người hãy niệm Như Lai sự, nói đầy đủ … cho đến niệm Thiên. Nhưng này các gia chủ, tại gia thì rối rắm, tại gia thì đắm nhiễm. Còn xuất gia thì vô sự, nhàn nhã, nên khó cho người thế tục có thể sống không gia đình, một mực thanh khiết, hoàn toàn trong sạch, phạm hạnh thanh bạch.”

Gia chủ bạch Phật:

“Kỳ diệu thay, Bạch Thế Tôn, khéo nói pháp này. Vì tại gia thì rối rắm, tại gia thì đắm nhiễm. Còn xuất gia thì vô sự, nhàn nhã, nên khó cho người thế tục có thể sống không gia đình, một mực thanh khiết, hoàn toàn trong sạch, phạm hạnh thanh bạch. Con là đại thần của vua Ba-tư-nặc. Khi vua Ba-tư-nặc lúc muốn dạo viên quán, sai con cỡi voi lớn chở các cung nữ được sủng ái nhất của vua. Một ngồi trước con, một sau con, con ngồi ở giữa. Khi voi xuống đồi, người ở trước chòang vào cổ con, người sau ôm lưng con; khi voi lên đồi, người sau bám lấy gáy con, người trước vít lấy áo con.

“Các thể nữ này vì muốn chiếm lòng vui thích của nhà vua nên mặc xiêm y lụa là sặc sỡ, trang điểm bằng anh lạc, và các loại hương vi diệu. Lúc cùng dạo chơi con luôn luôn giữ ba điều: Một là điều khiển voi, sợ rằng lạc mất đường chính; hai tự giữ tâm mình, sợ rằng sẽ sinh ra đắm nhiễm; ba tự giữ gìn, sợ rằng sẽ bị rơi ngã. Bạch Thế Tôn, lúc bấy giờ, đối với các thể nữ của vua, con không giây phút nào là không chánh tư duy.”

Phật bảo Gia chủ:

“Lành thay, lành thay, ngươi có thể khéo giữ tâm mình!”

Gia chủ bạch Phật:

“Những tài vật mà con có được ở tại gia, thường đem cúng dường cho Thế Tôn, cùng các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, và gúp đỡ cho Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di cùng chung thọ dụng, chứ không kể là của con.”

Phật bảo Gia chủ:

“Lành thay, lành thay! Đối với của cải, Gia chủ là người có tiền của giàu sang tột nhất tại nước Câu-tát-la, không ai có thể sánh bằng, mà không kể là của mình.”

Bấy giờ, đức Thế Tôn vì gia chủ này mà nói pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, làm cho hoan hỷ. Sau khi khai thị, chỉ giáo, soi sáng, làm cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy ra về. [65]

KINH 829. NHƯ LAI ĐỆ NHẤT [66]

Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở trong vườn trúc Ca-lan-đà, tại thành Vương-xá. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Hoặc có chúng sanh không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân; sắc, không sắc, tưởng, không tưởng, chẳng phải tưởng, chẳng phải chẳng tưởng; đối với tất cả thì Như lai là bậc nhất,… cho đến, Thánh giới cũng nói như vậy.”

KINH 830. LY THAM PHÁP ĐỆ NHẤT [67]

Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở trong vườn trúc Ca-lan-đà, tại thành Vương-xá. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu mọi công việc của chúng sanh ở thế gian, tất cả đều nương vào đất mà kiến lập có được, cũng vậy trong tất cả các pháp hữu vi, vô vi, pháp ly tham dục là bậc nhất.” Nói đầy đủ như vậy,… cho đến Thánh giới cũng nói như vậy.

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo [226a] nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 831. THANH VĂN ĐỆ NHẤT [68]

Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở trong vườn trúc Ca-lan-đà, tại thành Vương-xá. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu các chúng sanh ở thế gian, tất cả đều nương vào đất mà kiến lập được. Cũng vậy, trong tất cả mọi chúng sanh, chúng Thanh văn của Như lai là bậc nhất.”

Nói đầy đủ như vậy,… cho đến Thánh giới.

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 832. THÍCH THỊ [69]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Ni-câu-luật, nước Ca-tỳ-la-vệ, [70] Bấy giờ, có nhiều người họ Thích đi đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên. Bấy giờ Thế tôn bảo các Thích thị:

«Này các người Cù-đàm! Vào ngày trai giới, [71] và tháng thần túc, [72] có thọ trì trai giới và tu tập công đức gì không?»

Các Thích thị bạch Phật:

«Bạch Thế tôn! Chúng con vào những ngày trai, có khi giữ được trai giới, có khi không được. Vào tháng thần túc có khi giữ trai giới, tu tập mọi công đức, và cũng có khi không giữ được.»

Phật bảo những người  họ Thích:

«Này các Cù-đàm, các ngươi sẽ không thu hoạch được lợi tốt. Các ngươi là những người kiêu mạn, người phiền não, người ưu bi, người khổ não. Tại sao vào những ngày trai giới, có khi giữ  được trai giới, có khi không được? Vào những tháng thần túc, có khi giữ được trai giới, tu tập công đức, có khi không được? Này các Cù-đàm! Thí như người cầu lợi, mỗi ngày mỗi tăng dần, một ngày một tiền, hai ngày hai tiền, ba ngày bốn tiền, bốn ngày tám tiền, năm ngày mười sáu tiền, sáu ngày hai mươi tiền. Như vậy, người ấy càng ngày càng tăng dần; tám ngày, chín ngày, cho đến một tháng, tiền tài càng lúc càng lớn rộng phải không?»

Gia chủ bạch Phật:

«Bạch Thế tôn! Đúng vậy.»

Phật bảo Thích thị:

«Thế nào, các người Cù-đàm! Như vậy, người tiền tài tăng lên dần, và tiền tài tự nhiên sẽ tăng rộng ra mãi; vậy lại muốn cho mình, trong vòng mười năm, chỉ một mực hỷ lạc, tâm lạc,  phần nhiều  trụ thiền định, há có thể được không?»

Thích thị đáp:

«Bạch Thế tôn! Không.»

Phật bảo Thích thị:

«Hoặc là chín năm, tám năm, bảy năm, sáu năm, năm năm, bốn năm, ba năm, hai năm hay một năm, hỷ lạc, tâm lạc, phần nhiều  trụ thiền định, há có thể được không?»

Thích thị đáp:

«Bạch Thế tôn! Không.»

Phật bảo Thích thị:

«Thôi, không tính năm. Liệu mười tháng, chín tháng, tám tháng cho đến một tháng, hỷ lạc, tâm lạc, phần nhiều  trụ thiền định, há có thể được không? Lại không tính tháng, mà mười ngày, chín ngày, tám ngày cho đến một ngày một đêm hỷ lạc, tâm lạc, phần nhiều  trụ thiền định, há có thể được không?»

«Bạch Thế tôn! Không.»

Phật dạy Thích thị:

«Nay Ta nói cho các ngươi biết, trong hàng Thinh văn của Ta, có người tâm ngay thẳng, không siểm trá, không huyễn nguỵ Ta đã giáo hóa người này mười năm. Do nhân duyên này, người ấy có thể trong vòng trăm, nghìn, vạn năm chỉ một mực hỷ lạc, tâm lạc,  phần nhiều  trụ thiền định. Điều này chắc chắn là có.

«Lại nữa, thôi, không tính mười năm, mà chín năm, tám năm, cho đến một năm, mười tháng, chín tháng, cho đến một tháng; mười ngày, chín ngày, cho đến một ngày một đêm, nếu đã được Ta giáo hóa, thì đến sáng hôm sau họ có thể tiến bộ vượt bực. Sáng sớm đã được giáo hóa thì đến chiều tối, có thể tiến bộ gấp bội. Vì nhân duyên này, nên trong vòng trăm, nghìn, vạn năm chỉ một mực hỷ lạc, tâm lạc,  phần nhiều  trụ thiền định, thành tựu hai quả. Hoặc quả Tư-đà-hàm hay quả A-na-hàm. Vì người này trước đó đã đắc Tu-đà-hoàn rồi.»

Những người họ Thích bạch Phật:

«Lành thay! Thế tôn! Từ hôm nay, vào những ngày trai, chúng con sẽ tu tập  trai giới tám chi; vào tháng thần túc, cũng thọ trì trai giới, tùy sức mà bố thí, tu tập mọi công đức.»

Phật bảo Thích thị:

«Lành thay, các Cù-đàm, hãy làm những việc cần thiết.» [73]

 Phật nói kinh này xong, những người họ Cù-đàm nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ, làm lễ ra về.

KINH 833. TẬT BỆNH [74]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Ni-câu-luật, nước Ca-tỳ-la-vệ. Bấy giờ, có nhiều người dòng họ Thích nhóm họp tại nhà luận nghị, bàn luận như vậy. Khi ấy, có người họ Thích nói với người họ Thích tên là Nan-đề: «Tôi có khi được đến Như lai để cung kính cúng dường, có khi không được. Có khi được gần gũi cúng dường các vị Tỳ-kheo quen biết, có khi không được. Lại cũng không biết có những vị Ưu-bà-tắc trí tuệ, mà khi có những vị Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di trí tuệ khác bị tật bệnh khốn khổ, thì sẽ làm sao thuyết pháp, giáo giới, giáo hóa cho họ? Bây giờ chúng ta cùng đến chỗ Thế tôn thưa hỏi nghĩa này. Theo như lời dạy Thế tôn mà thọ trì.»

Lúc đó, Nan-đề và những người dòng họ Thích, cùng nhau đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

«Bạch Thế tôn! Chúng con những người họ Thích có bàn luận với nhau ở nhà nghị luận như vậy. Có người họ Thích đến nói với con rằng, ‹Này Nan-đề! Chúng tôi có khi được đến Như lai để cung kính cúng dường, có khi không được. Có khi được gần gũi cúng dường các vị Tỳ-kheo quen biết, có khi không được.Nói đầy đủ như trên ...  cho đến vâng theo lời dạy Thế tôn mà thọ trì.› Hôm nay chúng con thỉnh vấn Thế tôn:  ‹Nếu Ưu-bà-tắc trí tuệ, mà khi có Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di trí tuệ khác bị bệnh tật khốn khổ thì nên thuyết pháp giáo giới, giáo hóa thế nào?›»

Phật bảo Nan-đề:

«Nếu Ưu-bà-tắc trí tuệ, muốn đến chỗ Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di trí tuệ khác  đang bị tật bệnh khốn khổ, thì đem ba pháp an tâm [75] này mà truyền dạy cho họ; nói rằng, ‹Nhơn giả! Hãy thành tựu lòng tin thanh tịnh bất hoại đối vơi Phật, đối với Pháp, Tăng .›

«Sau khi đem ba pháp an tâm này truyền dạy xong, lại nên hỏi rằng: ‹Nhơn giả có quyến luyến cha mẹ không?›Nếu người kia có quyến luyến cha mẹ , thì nên dạy buông xả và nên nói rằng, ‹Nếu nhơn giả quyến luyến cha mẹ mà được sống, thì đáng quyến luyến. Đã không do quyến luyến mà được sống, thì quyến luyến làm gì?›Nếu kia nói không có quyến luyến cha mẹ thì nên tùy hỷ khuyến thiện, và hỏi thêm rằng: ‹Đối với vợ con, nô bộc, tiền của cùng mọi vật nhơn giả có quyến luyến không?› Nếu nói quyến luyến thì nên khuyên  buông xả, như pháp xả sự quyến luyến cha mẹ. Nếu nói không quyến luyến, thì tùy hỷ khuyến thiện và hỏi nữa: ‹Đối với ngũ dục thế gian nhơn giả có luyến tiếc không?› Nếu họ nói luyến tiếc, thì nên giải thích là ngũ dục thế gian là chỗ xấu xa, bất tịnh, bại hoại, hôi hám, không giống như ngũ dục thắng diệu cõi trời. Hãy khuyên kia lìa bỏ ngũ dục thế gian, và quyết mong ngũ dục cõi trời. Nếu người kia nói tâm  đã xa lìa ngũ dục thế gian, và trước đã nghĩ đến dục thắng diệu cõi trời, thì tùy hỷ khuyến thiện, và lại nói với họ rằng: ‹Ngũ dục thắng diệu cõi trời, là pháp vô thường, khổ, không, biến hoại. Chư thiên cõi trời có thân tướng thù thắng hơn ngũ dục cõi trời.› Nếu kia nói đã bỏ nghĩ đến dục cõi trời, và chỉ nghĩ đến thân tướng hơn ngũ dục, thì cũng tùy hỷ khuyến thiện và, lại nói với  rằng: ‹Dục của hữu thân [76] cũng lại là pháp vô thường, biến hoại, chỉ có sự an lạc của xuất ly, là Niết-bàn với sự diệt tận cuar các hành. Nhơn giả nên lìa bỏựư mê luyến nơi hữu thân, mà nên vui cái vui Niết-bàn vắng lặng, tối thượng, thù thắng.›

«Vị Thánh đệ tử kia nếu đã lìa bỏ sự mê luyến đối với hữu, chỉ vui với Niết-bàn, thì cũng nên tùy hỷ khuyến thiện.

«Như vậy, Nan-đề, Thánh đệ tử kia từ từ trước sau được nhắc nhở chỉ dạy, khiến cho họ được Niết-bàn bất khởi; [77] giống như Tỳ-kheo sống một trăm tuổi, giải thoát - Niết-bàn.»

Phật nói kinh này xong, Nan-đề họ Thích cùng mọi người nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ, đảnh lễ ra về.

KINH 834. BỒ-ĐỀ [78]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Ni-câu-luật, tại nước Ca-tỳ-la-vệ, Bấy giờ, có người họ Thích tên là Bồ-đề [79] đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

«Lành thay, bạch Thế tôn! Chúng con sung sướng được thiện lợi, là được làm thân quyến Thế tôn.»

Phật bảo Bồ-đề:

«Chớ nói như vậy, rằng ‹Chúng con sung sướng được thiện lợi, là được làm thân quyến Thế tôn.› Này Bồ-đề! Được gọi là thiện lợi là đối với Phật có tâm thanh tinh bất hoại, đối với pháp, Tăng có tâm thanh tịnh bất hoại, và thành tựu Thánh giới. Cho nên, này Bồ-đề! Nên học như vầy: Đối với Phật có tâm thanh tịnh bất hoại, đối với Pháp, Tăng có tâm thanh tịnh bất hoại, và thành tựu Thánh giới.»

Phật nói kinh này xong, Bồ-đề họ Thích nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ, làm lễ ra về.

KINH 835. VÃNG SINH [80]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Ni-câu-luật, tại nước Ca-tỳ-la-vệ, Bấy giờ, Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

«Nếu có vị Thánh đệ tử nào đối với Phật, thành tựu được lòng tin thanh tịnh bất hoại, thì ngay lúc đó, sẽ được các hàng chư Thiên trước kia đối với Phật đã thành tựu được lòng tin tịnh giới bất hoại, và vì nhân duyên này họ được sinh lên cõi trời, họ đều rất hoan hỷ và khen ngợi rằng: ‹Ta, nhờ nhân duyên đối với Phật thành tựu được lòng tin thanh tịnh bất hoại, nên được sinh lên cõi trời tốt đẹp này. Vị Thánh đệ tử kia, ngày nay đối với Phật thành tựu lòng tin thanh tịnh bất hoại, vì nhân duyên đó cũng sẽ sinh lên cõi trời tốt đẹp này.›

«Đối với Pháp và Tăng, lòng tin thanh tịnh bất hoại, và thành tựu Thánh giới cũng nói như vậy.»

Phật nói kinh này xong, Các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 836. TU-ĐÀ-HOÀN (1) [81]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

«Có bốn đạo phần Tu-đà-hoàn: [82] Thân cận người thiện nam, nghe chánh pháp, bên trong suy nghĩ chơn chánh, pháp thứ pháp hướng.» [83]

Phật nói kinh này xong, Các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 837. TU-ĐÀ-HOÀN (2) [84]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

«Có bốn chi phần Tu-đà-hoàn. [85] Những gì là bốn? Là đối với Phật, có tâm thanh tịnh bất hoại; đối với Pháp, Tăng, có tâm thanh tịnh bất hoại, và thành tựu Thánh giới. Đó gọi là đạo phần Tu-đà-hoàn.»

Phật nói kinh này xong, Các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 838. BỐN PHÁP [86]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

«Nếu có người nào thành tựu bốn pháp thì biết người đó là Tu-đà-hoàn. Những gì là bốn? Đó là đối với Phật, có tâm thanh tịnh bất hoại; đối với Pháp, Tăng, có tâm thanh tịnh bất hoại, và thành tựu Thánh giới. Đó gọi là người thành tựu bốn pháp, nên biết họ là Tu-đà-hoàn.»

Phật nói kinh này xong, Các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Giống như nói mà không phân biệt, cũng vậy phân biệt về Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Người nào thành tựu bốn pháp, thì biết họ là Tu-đà-hoàn. Các kinh đều nói như trên. [87]

KINH 839. BỐN QUẢ (1) [88]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

«Có bốn quả Sa-môn. Những gì là bốn? Là quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, và A-la-hán.»

Phật nói kinh này xong, Các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 840.  BỐN QUẢ (2) [89]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

«Có bốn quả Sa-môn. Những gì là bốn? Là quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, và A-la-hán. Thế nào là quả Tu-đà-hoàn? Đoạn dứt ba kết gọi là Tu-đà-hoàn. Thế nào là quả Tư-đà-hàm? Đoạn dứt ba kết và tham, sân, si vơi mỏng gọi là Tư-đà-hàm. Thế nào là quả A-na-hàm? Đoạn dứt năm hạ phần kết sử gọi là quả A-na-hàm. Thế nào là quả A-la-hán? Nếu người nào dứt sạch tham dục, sân nhuế, ngu si, và tất cả phiền não gọi là A-la-hán.»

Phật nói kinh này xong, Các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Giống như nói mà không phân biệt, cũng vậy, phận biệt Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Người nào thành tựu bốn pháp, thì biết họ là Tu-đà-hoàn. Các kinh đều nói như trên.

KINH 841. KINH HÀN XỨ [90]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

«Ở bất cứ nơi nào, nếu có Tỳ-kheo đi kinh hành nơi đó, mà chứng được một trong bốn quả Sa-môn, thì khi Tỳ-kheo ấy mạng chung, thường nhớ đến chỗ mình chứng quả.»

Phật nói kinh này xong, Các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Giống như chỗ kinh hành, cũng vậy chỗ đứng, chỗ ngồi, chỗ nằm cũng nói như vậy. Cũng vậy Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di.  Các kinh đều nói như vậy.

KINH 842. BỐN THỨC ĂN [91]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

«Giống như bốn loại thức ăn đối với tứ đại, để an lập chúng sanh, giúp ích và duy trì. Những gì là bốn? Là đoàn thực, xúc thực, ý tư thực, và thức thục. Cũng vậy, có bốn thứ thức ăn an lạc vốn thấm nhuần bởi phước đức, thấm nhuần bởi pháp lành. Những gì là bốn? Đó là đối với Phật thành tựu tâm thanh tịnh bất hoại, là thức ăn an lạc vốn thấm nhuần bởi phước đức, thấm nhuần bởi pháp lành. Đối với Pháp, Tăng thành tựu tâm thanh tịnh bất hoại, và thành tựu Thánh giới, là thức ăn an lạc vốn thấm nhuần bởi phước đức, thấm nhuần bởi pháp lành.»

Phật nói kinh này xong, Các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 843. NHUẬN TRẠCH (1) [92]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

Nói như trên, nhưng chỉ có một vài sự sai khác là:

«Đối với Phật thành tựu tâm thanh tịnh bất hoại, là thức ăn an lạc vốn thấm nhuần bởi phước đức, thấm nhuần bởi pháp lành.

«Đối với Pháp, Tăng, thành tựu tâm thanh tịnh bất hoại, các pháp đã được nghe, vừa ý, êy thích. Thành tựu Thánh giới, là thức ăn an lạc vốn thấm nhuần bởi phước đức, thấm nhuần bởi pháp lành.»

Phật nói kinh này xong, Các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 844. NHUẬN TRẠCH (2) [93]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

Nói như trên, nhưng chỉ có một vài sự sai khác là:

«Đối với Phật thành tựu tâm thanh tịnh bất hoại, là thức ăn an lạc vốn thấm nhuần bởi phước đức, thấm nhuần bởi pháp lành. Nếu Pháp hoặc tâm keo kiệt, cấu bẩn, trói buộc chúng sanh, thì tâm phải xa lìa các thứ keo kiệt, cấu bẩn đã dính nhiều vào đó, mà thực hành bố thí giải thoát. Thường bố thí, thích buông xả, tâm hành thí bình đẳng. là thức ăn an lạc vốn thấm nhuần bởi phước đức, thấm nhuần bởi pháp lành.»

Phật nói kinh này xong, Các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 845. NHUẬN TRẠCH (3) [94]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

Nói như trên, nhưng chỉ có một vài sự sai khác là:

«Bốn thứ như vậylà thức ăn an lạc vốn thấm nhuần bởi phước đức, thấm nhuần bởi pháp lành. Quả báo và công đức của Thánh đệ tử kia không thể so sánh. Không thể nói có được bao nhiêu phước, bao nhieu báo báo như vậy, mà chỉ nói phước báo nhiều của họ thuộc về  công đức lớn đã tích tụ.» Giống như kinh thí dụ ngũ hà [95] đã nói, ... cho đến nói kệ.

Phật nói kinh này xong, Các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 846. BỐN MƯƠI THIÊN TỬ [96]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, có bốn mươi Thiên tử tướng mạo rất đẹp đẽ, sáng sớm đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên. Thế tôn bảo các Thiên tử ấy rằng:

«Lành thay! Lành thay! Các Thiên tử! Các ngươi đối với Phật đã thành tựu tâm thanh tịnh bất hoại; đối với Pháp, Tăng thành tựu tâm thanh tịnh bất hoại, và thành tựu Thánh giới chưa?»

Bấy giờ, có một Thiên tử đứng dậy, sửa lại y phục, cúi đầu lễ sát chân Phật, rồi chấp tay bạch Phật:

«Bạch Thế tôn! Đối với Phật con đã thành tựu tâm thanh tịnh bất hoại, nhờ công đức này, nên khi thân hoại mạng chung con được sinh lên cõi trời.»

Một Thiên tử thưa:

«Bạch Thế tôn! Đối với Pháp con đã thành tựu tâm thanh tịnh bất hoại, nhờ công đức này, nên khi thân hoại mạng chung con được sinh lên cõi trời.»

Một Thiên tử thưa:

«Bạch Thế tôn! Đối với Tăng con đã thành tựu tâm thanh tịnh bất hoại, nhờ công đức này, nên khi thân hoại mạng chung con được sinh lên cõi trời.»

Một Thiên tử thưa:

«Bạch Thế tôn! Đối với Thánh giới con đã thành tựu, nhờ công đức này nên khi thân hoại mạng chung con được sinh lên cõi trời.»

Bấy giờ, bốn mươi Thiên tử ở trước Phật tự ký thuyết về quả Tu-đà-hoàn rồi liền biến mất.

Giống như bốn mươi vị Thiên tử, cũng vậy, bốn trăm Thiên tử, tám trăm Thiên tử, mười nghìn Thiên tử, hai chục nghìn Thiên tử, ba chục nghìn Thiên tử, bốn chục nghìn Thiên tử, năm chục nghìn Thiên tử, sáu chục nghìn Thiên tử, bảy chục nghìn Thiên tử, tám chục nghìn Thiên tử, họ ở  trước Phật tự ký thuyết về quả Tu-đà-hoàn xong liền biến mất.

 


 [1] Tương ưng bất hoại tịnh, gồm các kinh Đại chánh 833-860 (quyển 30), và 902-904 (cuối quyển 31. Ấn Thuận Hội biên, “16. Tương ưng Bất hoại tịnh,” gồm 29 kinh (số 1136-1164). Phần lớn tương đương Pāli, S. 55. Sotāpattisaṃyutta. Quốc dịch, quyển 26 tiếp theo, “8. Tương ưng bất hoại tịnh,”, chia làm 2 phầm, 128 kinh, số 12569-12636.

 [2] Đại chánh, kinh 833. Pāli, S. 55. 30. Licchavi.

 [3] Điều tượng sư Ly-xa 調象師離車. Pāli: vị Đại thần của Licchavi tên là Nandaka.

 [4] Đại chánh, kinh 834. Không nghèo. Pāli, S. 55. 44-45. Mahaddhana.

 [5] Đại chánh, kinh  835. Pāli, S. 55.1 Rājā.

 [6] Đại chánh, kinh 386. Pāli, S. 55.16-17. Mittenāmaccā.

 [7] Đại chánh, kinh 837.

 [8] Bất kiến cử 不見舉, bị Tăng buộc tội ngoan cố không nhận tội. 

 [9] Đại chánh, kinh 838. Pāli, S. 55.31. Abhisanda.

 [10] Đại chánh, kinh 839.

 [11] Đại chánh, kinh 840. Pāli, S. 55.32. Abhisanda.

 [12] Xan (khan) cấu 慳垢: bỏn xẻn, bủn xỉn.Pāli (S. v. 392): vigatamalamaccherena cetasā, với tâm đã gột sạch xan tham làm cáu bẩn.

 [13] Đại chánh, kinh 841. Pāli, S. 55.41-42. Abhisanda.

 [14] Phước đức nhuận trạch 福德潤澤. Pāli (S. v. 391): cattāro puññābhisandhā, bốn đăng lưu của phước; bốn dòng chảy tuôn ra phước đức.

 [15] Năm sông lớn: Hằng hà 恒河, Da-bồ-na 耶菩那, Tát-la-do 薩羅由, Y-la-bạt-đề 伊羅跋提, Ma-hê 摩醯. Pāli: Gaṅgā, Yamunā, Sarabhū, Aciravatī, Mahī.

 [16] Đại chánh, kinh 842. Pāli, S. 55.12. Brāhmaṇa.

 [17] Đại chánh, kinh 843. Pāli, S. 55. 5. Sāriputta.

 [18] Hán: lưu 流. Pāli: sota, dòng nước.

 [19] Nhập lưu phần 入流分, cũng nói là Dựu lưu chi, chi phần của dòng Thành. Pāli (S. v. 347): sotāpattyaṅga.

 [20] Bốn Dự lưu chi, xem Phẩm loại 2, tr.458b: thân cận thiện sỹ, thính văn chánh pháp, như lý tác ý, pháp tùy pháp hành. Cf. D.iii. Saṅgīti, cattāri sotāpattyaṅgāni: sppurisasaṃsevo, saddhammasavanaṃ, yonisomanasikāro, dhammānudhamma-paṭipatti.

 [21] Nguyên hán: thiện nam tử 善男子.Xem cht. 21 trên.

 [22] Nhập lưu giả 入流者. Pāli; sotāpanna, chỉ Thánh giả Tu-đà-hoàn, hay Dự lưu.

 [23] Đại chánh, kinh 844. Pāli, S. 55. 4. Sāriputta.

 [24] Đại chánh, kinh 845. Pāli, S. 55.29. Bhayaṃ (hay Bhikkhu).

 [25] Khủng bố đối oán 恐怖怨對. Pāli (S. v. 385): pañca bhāyāni verāni vūpasantāni ca honti,  đình chỉ năm sự sợ hãi và oán thù.

 [26] Đại chánh, kinh 846. Pāli, S. 55. 28, Duvera, hay Anāthapiṇḍika.

 [27] Đại chánh, kinh847. Pāli, S. 55. 35. Devapada.

 [28] Chư thiên thiên đạo 諸天天道. Pāli (S. v. 392): cattāri devānaṃ devapadāni, bốn lối đi  (dấu chân) của chư thiên..

 [29] Đại chánh, kinh 848. Pāli, S. 55.35. Devapada.

 [30] Như lai sự 如來事, tức Như lai hiệu.

 [31] Hán: thân ỷ tức 身猗息.

 [32] Đại chánh, kinh 849.

 [33] Đại chánh, kinh 850. Pāli, A. 11.12-13. Mahānāma.

 [34] Hán: pháp lưu thùy, nghĩa lưu thủy 法流水, 義流水. Pāli, cf. M. 37:  labhati atthavedaṃ labhati dhammavedaṃ, vị ấy đạt được sự tín thọ nơi nghĩa, sự tín thọ nơi pháp. Veda, trong bản Hán dịch là lưu, nghĩa chính là minh triết; ở đây cũng được hiểu là hân hoan (somanassa, Sớ giải).

 [35] Pāli: dhammupasaṃhitam pāmojjaṃ, sự hoan hỷ liên hệ đến Pháp.

 [36] Đại chánh, kinh 851. Tấm gương của Pháp. Pāli, S. 55.9. Giñakāvasatha.

 [37] Pháp kính kinh 法鏡經. Pāli: dhammādāsa dhammapariyāya, pháp môn pháp kính, tấm gương soi của Pháp.

 [38] Đại chánh, kinh 852. Pāli, S. 55. 8. Giñakāvasatha.

 [39] Bản Pāli, như kinh 854.

 [40] Nan-đồ tỳ kheo, Nan-đà tỳ-kheo ni, Thiện Anh ưu-bà-tắc, Thiện Sanh Ưu-bà-di 難屠比丘, 難陀比丘尼, 善生優婆塞, 善生優婆夷. Pāli: Sāḷha (?) bhikkhu, Nandā bhikkhunī; Sudatta (?) upāsaka, Sujātā upāsikā. Cf. S. 55.8-10, danh sách còn dài hơn.

 [41] Đại chánh, kinh 853.

 [42] Danh sách đầy đủ, S. 55.8-10.

 [43] Đại chánh, kinh 854. Pāli, S. 55. 10. Giñjakāvasatha.

 [44] Na-lê-ca tụ lạc Phồn-kỳ-ca tinh xá 那梨迦聚落繁耆迦精舍. Pāli: Ñātike Giñjakāvasathe.

 [45] Ưu-bà-tắc Kế-ca-xá 罽迦舍優婆塞, Ni-ca-tra 尼迦吒, Khư-lăng-ca-la 佉楞迦羅, Ca-đa-lê sa-ba 迦多梨沙婆, Xà-lộ 闍露, Ưu-ba-xà-lộ 優婆闍露, Lê-sắc-tra 梨色吒, A-lê-sắc-tra 阿梨色吒, Bạt-đà-la 跋陀羅, Tu-bạt-đà-la 須跋陀羅, Da-xá 耶舍, Da-du-đà 耶輸陀, Da-xá 耶舍, Uất-đa-la 鬱多羅. Danh sách Pāli, S. 55.10: Kakkato ñāṭike upāsako, Kāḷibho, Nikato, Kaṭissabho, Tuṭṭho, Santuṭṭho, Bhaddo, Subhaddo.

 [46] Đại chánh, kinh 855. Pāli, S. 55. 40. Nandiya.

 [47] Nan-đề Ưu-bà-tắc 難提優婆塞. Pāli: Nandiyo sakko.

 [48] Đại chánh, kinh 856. Pāli, S. 55 .47. Nandiya.

 [49] Thích thị Nan-đề 釋氏難提. Pāli: Sakko Nandiyo.

 [50] Pāli(S. vi. 397): Thánh đệ tử hoàn toàn không có bốn chi phần của Dự lưu (cattāri sotāpattiyaṅgāni), là do sống buông lung (pamādavihārī).

 [51] Xem kinh 855.

 [52] Đại chánh, kinh 857.

 [53] Hán: tiền tam nguyệt hạ 前三月夏; mùa hè, tức mùa mưa, có 4 tháng. An cư trong phạm vi ba tháng đầu.

 [54] Giải thoát thí修解脫施. Pāli: muttacāga, buông xả, cho với tâm buông bỏ.

 [55] Đại chánh, kinh 858. Pāli, A. 11. 14. Nandiya.

 [56] Xem cht. 53 kinh Đại chánh 857.

 [57] Có thể ở Ca-tì-la-vệ thì đúng hơn. Vì Nan-đề họ Thích ở Ca-tì-la-vệ.

 [58] Đại chánh, kinh 859. Tham chiếu kinh Đại chánh 858.

 [59] Lê-sư-đạt-đa 梨師達多. Pāli: Isidatta.

 [60] Phú-lan-na 富蘭那. Pāli: Purāṇa..

 [61] Đại chánh, kinh 860. Pāli, S. 55.6. Thapatayo.

 [62] Xem cht.66, 67, kinh Đại chánh 859.

 [63] Lộc kính trạch 鹿徑澤. Pāli (S. vi, 348): hai người thợ mộc hay công trình sư (thapatayo) Isidatta và Purāṇa đang ở tại thôn Sādhuka. Hai ông này là quan chức của vua Ba-tư-nặc.

 [64] Câu-tát-la 拘薩羅; Già-thi 伽尸; Ma-la 摩羅; Ma-kiệt-đà  摩竭陀; Ương-già 殃伽, Tu-ma 修摩; Phân-đà-la 分陀羅; Ca-lăng-già 迦陵伽. Pāli, theo thứ tự: Kosala, Kāsi, Malla, Magadha, ṅga, Sumbha, Puṇḍarīka, Kaliṅga. Lộ trình không giống với S. 55. 6.

 [65] Gản Hán, hết quyển 30.

 [66] Đại chánh, minh 902. Từ kinh số 902-904, ba kinh này thuộc cuối quyển 31,nhưng xét theo nội dung, nên Ấn Thuận Hội biên đưa vào Tương ưng bất hoai tịnh. Ở đây cũng vậy. Pāli, S. 45.139. Tathāgata. Cf. A. 4.34. Pasāda.

 [67] Đại chánh, kinh 903.

 [68] Đại chánh, kinh 904.

 [69] Đại chánh kinh 1121. Pāli, A. 10. 46. Sakka.

 [70] Ca-tỳ-la-vệquốc Ni-câu-luật viên 迦毘羅衛國尼拘律園. Pāli: Kapilavatthu-Nỉgodhārāma.

 [71] Pháp trai nhật 法齋日; chỉ ngày thọ trì bát quan trai giới. Pāli: aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ.

 [72] Thần túc nguyệt 神足月; tháng thần túc hay thần biến. Xem cht. ? kinh 1117.

 [73] Hán: vi chân thật yếu 為真實要; chưa hiểu ý.

 [74] Đại chánh, kinh 1122.  Pāli, S. 55. 54 Gilāyana.

 [75] Tô tức xứ 穌息處. Pāli: assāsaniya dhamma: pháp làm cho hơi thở điều hoà; làm cho thư giản, nghi9r ngơi; pháp làm cho an tâm.

 [76] Hữu thân 有身; tức hữu thân kiến, chấp thân có thật. Diệt trừ thân kiến chứng Tu-đà-hoàn. Pāli: sakkāya.

 [77] Hán; bất khởi niết-bàn 不起涅槃; chỉ  niêt-bàn vô sinh, không còn tái sinh. Bản Pāli không nhắc đến ý nghĩa này.

 [78] Đại chánh, kinh 1123. Pāli, S. 55. 48. Bhaddiya.

 [79] Bồ-đề 菩提. Pāli: Bhaddiya.

 [80] Đại chánh, kinh 1124. Pāli, S. 55. 36. Sabhāgata.

 [81] Đại chánh, kinh 1125. Pāli, S. 55. 50. Aṅga; S. 55. 55. Caturo phalā.

 [82] Tứ chủng Tu-đà-hoàn đạo phần 四種須陀洹道分. Pāli: cattāri sotapattiyaṅgāni. Cũng gọi là bốn Dự lưu chi, cf. Pháp uẩn 2, Đại 26, tr.458.

 [83] Cf, Pháp uẩn, ibid.: thân cận thiện sỹ, thính văn chánh pháp, như lý tác ý, pháp tuỳ pháp hành. Pāli, cf. D.iii. 227: sappurisa-saṃsevo, saddhamma-savanaṃ, yoniso-manasikāro, dhammānudhamma-paṭipatti.

 [84] Đại chánh, kinh 1126. Pāli, S. 55. 46. Bhikkhū.

 [85] Tu-đà-hoàn phần 須陀洹分.

 [86] Đại chánh, kinh 1127. Pāli, S. 55. 2. Ogadha.

 [87] Trong đoạn này, tóm tắt co 17 kinh. Ấn Thuận, kinh 1318-13190. Đại chánh không có kinh số tương đương.

 [88] Đại chánh, kinh 1128. Pāli, S. 55. 55-58. Caturo phalā.

 [89] Đại chánh, kinh 1129. Tham chiếu kinh 1128.

 [90] Đại chánh, kinh 1130. Pāli, không thấy tương đwong.

 [91] Đại chánh, kinh 1131. Pāli, S. 55. 31. Abhisanda.

 [92] Đại chánh, kinh 1132. Pāli. S. 55. 31. Abhisanda.

 [93] Đại chánh, kinh 1133.

 [94] Đại chánh, kinh 1134. Pāli,  S. 55. 33. Abhisanda.

 [95] Quyển 30, kinh 841.

 [96] Đại chánh, kinh 1135. Pāli, S. 55. 20. Devacārika.