32. Tương Ưng Đế thích, Kinh 1008-1029

32. TƯƠNG ƯNG ĐẾ THÍCH [1]

KINH 1008. BẢY THỌ [2]

 [290b19] Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương-xá.

Bấy giờ, Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Ai có thể thọ trì bảy thọ; [3] nhờ nhân duyên này, người ấy sẽ được sinh lên cõi Thiên-đế Thích. Thiên-đế Thích xưa kia lúc còn làm người thường phụng dưỡng cha mẹ; cúng dường các bậc tôn trưởng; lời nói dịu dàng; không nói dữ; [4] không nói hai lưỡi; thường nói chân thật; đối với thế gian keo kiệt, tuy sống tại gia nhưng không keo lẫn, hành giải thoát thí, [5] siêng bố thí, thường ưa hành bố thí, mở hội bố thí cúng dường, bố thí bình đẳng tất cả.”

Bấy giờ Thế tôn, liền nói kệ:

Phụng dưỡng cho cha mẹ,

Và tôn trưởng gia tộc ;

Lời nhu hòa, cung kính;

Tránh lời thô; hai lưỡi;

Điều phục tâm keo kiệt;

Thường nói lời chân thật.

 [290c]Trời Tam Thập Tam kia,

Thấy người hành bảy pháp;

Tất cả đều nói rằng,

Tương lai sinh cõi này.

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1009. MA-HA-LY [6]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở giảng đường Trùng các, bên ao Di hầu, tại nước Tì-xá-li.

Bấy giờ, có người dòng Li-xa tên là Ma-ha-lị, [7] đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế tôn, Thế Tôn có thấy Thiên-đế Thích không?”

Phật đáp:

“Thấy.”

Li-xa lại hỏi:

“Thế tôn có thấy có con quỷ giống hình Thiên-đế Thích không?” [8]

Phật bảo Li-xa:

“Ta biết Thiên-đế Thích. Cũng biết có quỷ giống Thiên-đế Thích. Cũng biết pháp Thiên-đế Thích kia, nhờ duyên thọ trì những pháp này nên được sinh chỗ Thiên-đế Thích. Này Li-xa, Đế Thích xưa kia khi còn làm người hay phụng dưỡng cha mẹ, ... cho đến hành xả bình đẳng.”

Bấy giờ, Thế tôn liền nói kệ:

Phụng dưỡng cho cha mẹ,

Và tôn trưởng gia tộc ;

Lời nhu hòa, cung kính;

Tránh lời thô; hai lưỡi;

Điều phục tâm keo kiệt;

Thường nói lời chân thật.

Trời Tam Thập Tam kia,

Thấy người hành bảy pháp;

Tất cả đều nói rằng,

Tương lai sinh cõi này.

Phật nói kinh này xong, Li-xa Ma-ha-lợi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ làm lễ ra về.

KINH 1010. HÀ NHÂN [9]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở giảng đường Trùng các, bên ao Di hầu, tại nước Tì-xá-li.

Bấy giờ, có một Tỳ-kheo đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, đứng lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế tôn, do nhân gì, duyên gì mà Thích Đề-hoàn Nhơn được gọi là Thích Đề-hoàn Nhơn ?” [10]

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Thích Đề-hoàn Nhơn xưa kia khi làm người hành thí nhiệt thành; bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn, người bần cùng khốn khổ, người đi đường, người xin ăn, bằng các thứ đồ ăn, thức uống, tiền của, thóc gạo, lụa là, hoa hương, vật dụng trang sức, giường nằm, đèn đuốc.  Vì có khả năng làm như vậy. Hãy gọi là Thích Đề-hoàn Nhơn.” [11]

Tỳ-kheo lại bạch Phật:

“Bạch Thế tôn,do nhân gì, duyên gì mà Thích Đề-hoàn Nhơn được gọi là Phú-lan-đà-la?” [12]

Phật nói với Tỳ-kheo:

“Thích Đề-hoàn Nhơn xưa kia khi còn làm người thường hay hành thí y phục, đồ ăn thức uống, ... cho đến đèn đuốc. [291a] Vì những nhân duyên này. Hãy gọi là Phú-lan-đà-la.” [13]

Tỳ-kheo lại bạch Phật:

“Nhân gì, duyên gì mà được gọi là Ma-già-bà?” [14]

Phật nói với Tỳ-kheo:

“Thích Đề-hoàn Nhơn xưa kia khi còn làm người tên là Ma-già-bà, [15] do đó Ma-già-bà là tên cũ của Thích Đề-hoàn Nhơn.”

Tỳ-kheo lại bạch Phật:

“Nhân gì, duyên gì mà lại có tên là Bà-sa-bà?” [16]

Phật nói với Tỳ-kheo:

“Thích Đề-hoàn Nhơn xưa kia khi còn làm người luôn luôn đem áo bà-tiên-hòa [17] bố thí, cúng dường, vì nhân duyên này nên Thích Đề-hoàn Nhơn có tên là Bà-sa-bà.”

Tỳ-kheo lại bạch Phật:

“Bạch Thế tôn! Nhân gì, duyên gì mà Thích Đề-hoàn Nhơn lại có tên là Kiều-thi-ca?” [18]

Phật nói với Tỳ-kheo:

“Thích Đề-hoàn Nhơn xưa kia khi còn làm người, là người dòng họ Kiều-thi. [19] Vì nhân duyên này. Hãy Thích Đề-hoàn Nhơn lại có tên là Kiều-thi-ca.”

Tỳ-kheo hỏi Phật:

“Bạch Thế tôn,do nhân gì, duyên gì mà Thích Đề-hoàn Nhơn được gọi là Xá-chỉ-bát-đê?” [20]

Phật nói với Tỳ-kheo:

“Nữ A-tu-la Xá-chỉ là đệ nhất thiên hậu của Thiên-đế Thích. Cho nên Đế Thích được gọi là Xá-chỉ-bát-đê?”

Tỳ-kheo lại bạch Phật:

“Bạch Thế tôn, do nhân gì, duyên gì mà Thích Đề-hoàn Nhơn lại có tên là Thiên Nhãn?” [21]

Phật nói với Tỳ-kheo:

“Thích Đề-hoàn Nhân xưa kia khi còn làm người, thông minh trí tuệ, ngồi một chỗ mà suy nghĩ cả nghìn thứ nghĩa, xem xét, cân nhắc. Vì nhân duyên này nên Thiên-đế Thích còn gọi là Thiên Nhãn.”

Tỳ-kheo lại bạch Phật:

“Nhân gì, duyên gì mà Thích Đề-hoàn Nhân còn có tên là Nhơn-đề-lợi?” [22]

Phật nói với Tỳ-kheo:

“Thiên-đế Thích kia Tam Thập Tam là vua, là chủ nơi trời Tam Thập Tam; do nhân duyên này nên Thiên-đế Thích được gọi là Nhơn-đề-lị.”

Phật lại nói với Tỳ-kheo:

“Song Thích Đề-hoàn Nhân xưa kia khi còn làm người, thọ trì bảy thứ thọ; do nhân duyên này nên được làm Thiên-đế Thích. Những gì là bảy thọ? Thích Đề-hoàn Nhân xưa kia khi còn làm người, phụng dưỡng cha mẹ ... cho đến hành thí. Đó là bảy thứ thọ. Do nhân duyên này nên được làm Thiên-đế Thích.”

Bấy giờ, Thế tôn liền nói kệ:

Nói đầy đủ như trên.

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1011. DẠ-XOA [23]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở  giảng đường Trùng các, bên ao Di hầu, tại nước Tì-xá-li.

Bấy giờ, Thế tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Vào đời quá khứ có một con quỷ Dạ-xoa [24] xấu xi ngồi trên chỗ ngồi trống của Đế Thích. [291b] Khi chư thiên Tam Thập Tam  thấy con quỷ xấu xí này ngồi trên chỗ ngồi trống của Đế Thích, hết thảy đều nổi sân. Lúc chư thiên nổi sân như vậy; họ càng nổi sân bao nhiêu, thì dung mạo của con quỷ kia càng dần dần trở nên xinh đẹp bấy nhiêu. Khi ấy chư Thiên Tam Thập Tam đến chỗ̃ Đế Thích, tâu Đế Thích rằng: ‘Kiều-thi-ca. Hãy biết cho, có một con quỷ xấu xí, ngồi trên chỗ ngồi trống của Thiên vương. Khi chư thiên chúng tôi thấy con quỷ xấu xí, ngồi trên chỗ ngồi trống của thiên vương, chúng tôi vô cùng tức giận. Nhưng chúng tôi càng nổi sân bao nhiêu, thì dung mạo của con quỷ kia càng dần dần trở nên xinh đẹp bấy nhiêu.”

Thích Đề-hoàn Nhơn nói với chư thiên Tam Thập Tam:

“Chính sự sân nhuế kia là sự đối trị của con quỷ này.”

Rồi Đế Thích tự thân đến chỗ con quỷ kia, sửa lại y phục, bày vai hữu, chấp tay xưng tên ba lần, rằng:

“Nhơn giả, tôi là Thích Đê-hoàn Nhơn.”

Thích Đề-hoàn Nhân càng tỏ sự cung kính khiêm hạ như vậy bao nhiêu, con quỷ kia cũng theo đó dần dần trở lại xấu xí bấy nhiêu. Nó liền biến mất.

Khi ấy, Thích Đề-hoàn Nhơn trở lại chỗ ngồi, rồi nói kệ:

Người chớ nên sân hận.

Bị sân chớ đáp sân.

Chớ sinh ác trả ác.

Nên phá hoại kiêu mạn.

Không sân cũng không hại,

Là sống chúng Hiền Thánh.

Tội ác khởi sân hận,

Cứng chắc như núi đá. [25]

Nên nén cơn giận lại,

Như điều xe ngựa sỗng;

Ta nói người khéo điều,

Chẳng phải người cầm dây.

Phật nói với các Tỳ-kheo:

“Thích Đề-hoàn Nhơn là Vua tự tại ở trời Tam Thập Tam khen ngợi không sân nhuế. Cũng vậy, các ngươi chánh tín, xuất gia học đạo, không nhà, cũng nên khen ngợi không sân nhuế. Hãy học như vậy.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1012. HÀNH NHẪN NHỤC [26]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ sáng sớm, Thế tôn khóac y, ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực. Sau khi khất thực xong, Thế Tôn trở về tinh xá, cất y bát, rửa chân, rồi cầm tọa cụ vắt lên vai phải, vào rừng An-đà, trải tọa cụ ngồi dưới một gốc cây, nhập chánh thọ ban ngày.

Khi ấy trong tinh xá Kỳ-hoàn có hai Tỳ-kheo tranh chấp. Một người mạ lỵ, một người im lặng. Người mạ lỵ liền [291c] hối cải đến xin lỗi vị kia, mà Tỳ-kheo kia không nhận sự sám hối của vị này. Vì không nhận sự sám hối. Hãy trong tinh xá khi ấy các Tỳ-kheo cùng đến khuyên can; lớn tiếng, ồn ào.

Bấy giờ, Thế tôn do thiên nhĩ thanh tịnh hơn tai người, nghe trong tinh xá Kỳ-hoàn đang lớn tiếng ồn ào. Nghe vậy, từ thiền tịnh dậy, Thế Tôn trở về tinh xá, trải tòa ngồi trước đại chúng, nói với các Tỳ-kheo:

“Sáng nay Ta đi khất thực về, vào rừng An-đà tọa thiền, nhập chánh thọ ban ngày, nghe trong tinh xá cao tiếng, lớn tiếng, lộn xộn, ồn ào. Rốt cuộc là ai vậy?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Trong tinh xá này có hai Tỳ-kheo tranh chấp. Một người mắng, một người làm thinh. Khi ấy Tỳ-kheo mắng đến sám hối, vị kia không nhận. Vì không nhận nên nhiều người khuyên can, cho nên mới có lớn tiếng, cao tiếng, ồn ào.”

Phật nói với Tỳ-kheo:

“Thế nào, Tỳ-kheo ngu si? Người đến sám hối mà không nhận sự sám hối của người ta. Nếu có người sám hối mà người nào đó không nhận, thì đó là ngu si, lâu dài bị khổ não, không được lợi ích.”

“Này các Tỳ-kheo, vào thời quá khứ, có chư thiên Tam Thập Tam tranh chấp nhau. Thích Đề-hoàn Nhơn nói kệ răn dạy rằng:

Với người, tâm không hại,

Sân cũng không trói buộc.

Không ôm lòng hận lâu,

Không trụ nơi sân nhuế.

Giả sử nổi giận dữ,

Cũng không phát lời thô;

Không tìm yếu điểm người,

Nêu cái dở của người. [27]

Luôn luôn tự phòng hộ,

Bên trong tỉnh xét nghĩa.

Không giận cũng không hại,

Luôn sống theo Hiền Thánh.

Nếu cùng chung người ác,

Ngang ngạnh như núi đá.

Tự nén cơn giận lại;

Như điều xe ngựa sỗng,

Ta nói người khéo điều,

Chẳng phải người cầm dây.

Phật nói với các Tỳ-kheo:

“Thích Đề-hoàn Nhơn là Vua tự tại của trời Tam Thập Tam thường hành nhẫn nhục, cũng lại khen ngợi người hành nhẫn nhục. Tỳ-kheo các ngươi chánh tín, xuất gia học đạo, không nhà, cũng nên hành nhẫn nhục, và khen ngợi người hành nhẫn nhục. Hãy học như vậy.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1013. THIỆN LUẬN NGHỊ [28]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. [292a] Bấy giờ, Thế tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Vào thời quá khứ chư Thiên và A-tu-la bày trận sắp đánh nhau, Thích Đề-hoàn Nhơn nói với vua A-tu-la là Tì-ma-chất-đa-la [29]:

“Chúng ta không được sát hại nhau. Chỉ nên luận nghị. Ai bị khuất lý phải phục.”

Vua A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la nói:

“Giả sử cùng nhau luận nghị, nhưng ai sẽ làm chứng để biết lý đó là thông suốt hay bế tắc?”

Thiên-đế Thích trả lời:

“Trong chúng chư thiên có người trí tuệ sáng suốt, sẽ ghi nhận điều này. Trong chúng A-tu-la cũng có người sáng suốt ghi nhận.”

A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la nói:

“Được vậy.”

Thích Đề-hoàn Nhân nói:

“Các ông có thể lập luận trước. Sau tôi sẽ theo đó lập luận. Không có gì khó khăn.”

Khi ấy, vua A-tu-la là Tì-ma-chất-đa-la liền nói kệ lập luận:

Nếu tôi hành nhẫn nhục,

Thì việc này thiếu sót.

Người ngu si sẽ nói:

Vì sợ nên nhẫn nhục.

Thích Đề-hoàn Nhơn nói kệ đáp:

Giả sử người ngu si,

Nói: vì sợ nên nhẫn.

Và kẻ không nói kia,

Tổn thương gì đến lý?

Nên tự xét nghĩa này,

Cũng nên xét nghĩa người;

Ta, người đều được an,

Nhẫn nhục là tối thượng.

A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la lại nói kệ:

Nếu không chế ngu si,

Thì ngu si hại người.

Giống như trâu hung dữ,

Chạy xông theo húc người.

Cầm roi mà áp chế,

Vì sợ, sẽ khuất phuc.

Cho nên giữ chặt roi,

Chiết phục kẻ ngu kia.

Đế Thích lại nói kệ:

Tôi thường xét điều đó,

Chiết phục kẻ ngu kia. [30]

Người ngu nổi sân nhuế,

Người trí giữ điềm tĩnh.

Không sân cũng không hại,

Luôn luôn theo Hiền Thánh.

Nếu cùng chung người ác,

Ngang ngạnh như núi đá;

Tự nén cơn giận lại;

Như điều xe ngựa sỗng,

Ta nói người khéo điều,

Chẳng phải người cầm dây.

 [292b] Bấy giờ, trong chúng trời có vị trời trí tuệ, trong chúng A-tu-la cũng có vị A-tu-la trí tuệ, suy xét bài kệ này, cân nhắc, quan sát, suy nghĩ: “Bài kệ của A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la nói cuối cùng lúc nào cũng chỉ khởi lên chiến đấu, tranh tụng. Nên biết, vua A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la luôn luôn dạy người chiến đấu tranh tụng. Còn bài kệ của Thích Đề-hoàn Nhơn cuối cùng lúc nào cũng muốn dứt chiến đấu, tranh tụng. Nên biết trời Đế Thích luôn luôn dạy người đừng chiến đấu, tranh tụng. Nên biết, Đế Thích khéo lập luận thù thắng.”

Phật nói với các Tỳ-kheo:

“Thích Đề-hoàn Nhơn nhờ nghị luận thiện [31] nên hàng phục được A-tu-la. Này các Tỳ-kheo, Thích Đề-hoàn Nhơn là vua Tự tại của cõi trời Tam Thập Tam, luận nghị thiện, khen ngợi những luận nghị thiện. Cũng nên như vậy, Tỳ-kheo các ngươi chánh tín, xuất gia, học đạo, không nhà cũng nên lập luận đúng và khen ngợi những luận cứ đúng. Hãy học như vậy.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1014. NGŨ PHƯỢC [32]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Vào thời quá khứ, Thiên-đế Thích và A-tu-la bày trận sắp đánh nhau. Lúc ấy Thích Đề-hoàn Nhơn nói với chư Thiên trời Tam Thập Tam:

“Hôm nay, chư Thiên cùng A-tu-la đánh nhau. Nếu chư thiên thắng, A-tu-la bại, hãy bắt sống vua A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la, trói chặt năm chỗ đem về Thiên cung.”

A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la nói với các A-tu-la:

“Hôm nay, chư Thiên cùng A-tu-la đánh nhau, nếu A-tu-la thắng, chư Thiên bại, hãy bắt sống Thích Đề-hoàn Nhơn, trói chặt năm chỗ, đem về cung A-tu-la.”

Đang lúc họ đánh nhau, chư Thiên đắc thắng, A-tu-la bị bại. Khi ấy chư thiên kia bắt được vua A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la, lấy dây trói lại năm chỗ đem về Thiên cung, cột dưới cửa, trước điện Đoán pháp [33] của Đế Thích. Khi Đế Thích ra vào cửa này, A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la bị cột ở bên cửa tức giận, mạ lỵ. Lúc đó người hầu cận của Đế Thích thấy vua A-tu-la thân bị trói năm chỗ, cột bên cửa, thấy Đế Thích ra vào thì nổi giận mạ lỵ, liền làm bài kệ:

 [292c] Nay Đế Thích sợ nó,

Vì không đủ sức chăng?

Hay nhẫn A-tu-la,

Mắng chưởi trước mặt mình?

Đế Thích liền đáp:

Không vì sợ nên nhẫn.

Không phải sức không đủ.

Có người trí tuệ nào

Tranh luận với kẻ ngu?

Người hầu cận lại tâu:

Nếu chỉ hành nhẫn nhục,

Sự việc tất thiếu sót.

Kẻ ngu si sẽ nói:

Vì sợ nên nhẫn nhục.

Cho nên phải khổ trị,

Dùng trí chế ngu si.

Đế Thích đáp:

Ta thường  xét điều đó,

Chế ngự kẻ ngu kia.

Thấy người ngu nổi sân,

Trí dùng tĩnh chế phục.

Không sức mới dùng sức,

Là sức kẻ ngu kia.

Ngu si trái nghịch pháp,

Chẳng có đạo lý gì.

Giả sử có sức mạnh,

Nhưng nhẫn nhịn người yếu;

Thì nhấ̃n này tối thượng.

Không sức, sao có nhẫn?

Bị người mạ nhục quá,

Người sức mạnh hay nhẫn.

Đó là nhẫn tối thượng.

Không sức làm sao nhẫn?

Với  mình và với người,

Khéo làm chủ sợ hãi.

Biết kia nổi sân nhuế,

Mình lại giữ an tĩnh.

Cả hai nghĩa đều đủ,

Lợi mình cũng lợi người.

Gọi là kẻ ngu phu,

Do vì không thấy pháp.

Ngu nói với mình thắng nhẫn,

Càng tăng thêm ác khẩu;

Chưa biết nhẫn người mắng,

Thường cho đắc thắng người.

Nhẫn nhịn người hơn mình,

Đó là nhẫn do sợ.

Nhẫn nhịn người bằng,

Đó là nhịn tranh chấp.

Nhẫn nhịn người kem mình,

Đó là nhẫn tối thượng.

Phật nói với các Tỳ-kheo:

“Thích Đề-hoàn Nhân là Vua Tự tại của trời Tam Thập Tam thường hành nhẫn nhục, khen ngợi nhẫn nhục. Tỳ-kheo các ngươi chánh tín, sống không nhà, [293a] xuất gia học đạo, cũng nên nhẫn nhục như vậy, và khen ngợi nhẫn nhục. Hãy học như vậy.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1015. KỈNH PHẬT [34]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Vào thời quá khứ, Thích Đề-hoàn Nhân muốn đi thăm công viên,  sai người đánh xe sửa soạn cỗ xe nghìn ngựa để đi thăm vườn. Người đánh xe vâng lệnh liền sửa soạn cỗ xe nghìn ngựa, rồi đến tâu với Đế Thích:

“Thưa Câu-thi-ca, đã sửa soạn xe cộ xong, xin Vua biết thời.”

Đế Thích liền bước xuống điện Thường thắng, [35] hướng về phía Đông chấp tay lễ Phật. Bấy giờ, người đánh xe thấy vậy liền sinh lòng kinh hãi, lông dựng đứng, roi ngựa rớt xuống đất. Đế Thích thấy người đánh xe sinh lòng kinh hãi, lông dựng đứng, roi ngựa rớt xuống đất, liền nói kệ:

Ngươi thấy gì mà sợ,

Để roi ngựa rớt đất?

Người hầu cận nói kệ tâu Đế Thích:

Thấy vua Thiên-đế Thích,

Là chồng của Xá-chỉ; [36]

Cho nên sinh sợ hãi,

Roi ngựa rớt xuống đất!

Thường thấy Thiên-đế Thích,

Được toàn thể đại địa,

Vua lớn nhỏ, trời, người,

Cùng bốn Chúa hộ thế, [37]

Thiên chúng Tam Thập Tam,

Thảy đều lễ cung kính.

Còn nơi nào tôn hơn,

Đáng tôn đối  Đế Thích?

Mà nay hướng về Đông,

Chấp tay để kính lễ?

Đế Thích nói kệ đáp:

Ta thật được tất cả,

Vua lớn nhỏ thế gian,

Cùng bốn Chúả hộ thế,

Thiên Chúng Tam Thập Tam,

Thảy đến cung kính lễ,

Vì Chúa tối tôn của họ.

Nhưng thế gian lại có,

Đấng Chánh giác tùy thuận,

Là Thầy cả chư Thiên,

Nên ta cúi đầu lễ.

Người đánh xe lại tâu:

Đó chắc hơn thế gian,

Nên khiến Thiên đế Thích;

 [293b] Cung kính mà chấp tay,

Cúi đầu lễ hướng Đông.

Nay con  cũng nên lễ,

Đấng vua Trời đã lễ.

Khi ấy Đế Thích, chồng của Xá-chỉ, nói kệ lễ Phật như vậy, rồi lên xe nghìn ngựa đến dạo xem vườn.

Phật nói với các Tỳ-kheo:

“Thiên-đế Thích kia là vua Tự Tại của Trời Tam Thập Tam còn cung kính Phật, cũng lại khen ngợi sự cung kính Phật. Tỳ-kheo các ngươi chánh tín, xuất gia học đạo, sống không nhà, cũng nên cung kính Phật như vậy, cũng nên khen ngợi sự cung kính Phật. Hãy học như vậy.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1016. KÍNH PHÁP [38]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Nói đầy đủ như trên nhưng chỉ có sự sai khác là:

Bấy giờ, Thiên-đế Thích bước xuống điện Thường thắng chấp tay hướng về hướng Đông kính lễ Tôn pháp ... cho đến Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1017. KÍNH PHÁP (2) [39]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Nói đầy đủ như trên nhưng chỉ có sự sai khác là:

Bấy giờ, Thiên-đế Thích nói kệ trả lời người đánh xe:

Ta thật được cõi đất,

Vua lớn nhỏ thế gian;

Và bốn Chúa hộ thế,

Thiên chúng Tam Thập Tam.

Hết cả thảy như vậy,

Đều tôn trọng cung kính.

Nhưng vị tịnh giới kia,

Từ lâu nhập chánh thọ.

Với chánh tín xuất gia,

Rôt ráo các phạm hạnh;

Nên ta đối vị ấy,

Tôn trọng cung kính lễ.

Vị điều phục tham, nhuế,

Vượt cảnh giới ngu si;

Tu học không buông lung,

Ta kính lễ vị ấy.

Tham dục, sân nhuế, si,

Đều dứt hẳn không đắm;

Lậu tận, A-la-hán,

Ta kính lễ vị ấy.

Nếu người sống tại gia,

Phụng trì giới thanh tịnh;

Đúng như pháp bố-tát, [40]

Cũng lại nên kính lễ.

Người đánh xe tâu Đế Thích:

 [293c] Người này chắc hơn đời,

Nên Thiên vương kính lễ.

Tôi cũng nên như vậy,

Kính lễ theo Thiên vương.

“Này các Tỳ-kheo, Thiên-đế Thích chồng của Xá-chỉ kia kính lễ Pháp, Tăng, cũng còn khen ngợi người kính lễ Pháp, Tăng. Các ngươi đã chánh tín, xuất gia học đạo, không nhà, cũng nên kính lễ Pháp, Tăng, và khen ngợi người kính lễ Pháp, Tăng như vậy.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1018. KÍNH TĂNG [41]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, nói với các Tỳ-kheo:

“Vào thời quá khứ, Thích Đề-hoàn Nhân muốn đi thăm công viên,  sai người đánh xe sửa soạn cỗ xe nghìn ngựa để đi thăm vườn. Người đánh xe vâng lệnh liền sửa soạn cỗ xe nghìn ngựa, rồi đến tâu với Đế Thích:

“Thưa Câu-thi-ca, đã sửa soạn xe cộ xong, xin Vua biết thời.”

Đế Thích liền bước xuống điện Thường thắng, hướng về phía Đông chấp tay lễ. Bấy giờ, người đánh xe thấy vậy liền sinh lòng kinh hãi, lông dựng đứng, roi ngựa rớt xuống đất. Khi ấy Đế Thích thấy người đánh xe sinh lòng kinh hãi, lông dựng đứng, roi ngựa rớt xuống đất, liền nói kệ:

Các phương chỉ có người,

Do thai sinh, xú uế;

Thần ở trong thây thối,

Đói khát thường thiêu đốt.

Tại sao Kiều-thi-ca,

Tôn trọng người không nhà?

Vì tôi nói nghĩa này,

Khao khát xin muốn nghe.

Thiên-đế Thích nói kệ đáp:

Ta chân thành kinh lễ,

Người xuất gia, không nhà;

Tự tại dạo khắp nơi,

Không kể nơi đi, ở;

Chốn thành ấp, quốc độ,

Không thể lụy tâm kia.

Không chứa chất tư hữu,

Một đi, không cố định.

Bước đi không mong cầu,

Chỉ vô vi là vui;

Khi nói,chỉ nói thiện,

Khi không nói, tịch định.

Chư Thiên, A-tu-la,

Luôn luôn kình chống nhau.

Nhân gian tranh giành nhau,

Nghịch nhau cũng như vậy.

Chỉ có người xuất gia,

Không tranh giữa người  tranh.

 [294] Với tất cả chúng sanh,

Buông bỏ mọi đao gậy.

Vất bỏ mọi tài sắc,

Không say, không mê đắm;

Xa lìa tất cả ác.

Ta kính lễ vị ấy.

Lúc ấy, người đánh xe lại nói kệ:

Người được Thiên vương kính,

Chắc là bậc hơn đời;

Nên từ hôm nay, con,

Sẽ lễ người xuất gia.

Nói như vậy rồi, Thiên-đế́ Thích kính lễ tất cả Tăng ở các phương, xong rồi leo lên xe ngựa dạo xem vườn rừng.

Phật nói với các Tỳ-kheo:

“Thiên-đế Thích kia là Vua Tự tại của Trời Tam Thập Tam mà thường cung kính chúng Tăng, cũng thường khen ngợi công đức cung kính Tăng. Tỳ-kheo các ngươi chánh tín, xuất gia học đạo, sống không nhà, cũng nên cung kính chúng Tăng và cũng nên khen ngợi công đức cung kính chúng Tăng như vậy.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1019. TÚ-TÌ-LÊ [42]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Vào thời quá khứ, vua A-tu-la khởi bốn binh chủng là tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh, muốn đánh nhau với chư Thiên trời Tam Thập Tam. Lúc ấy Thích Đề-hoàn Nhân nghe vua A-tu-la khởi bốn binh chủng là tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh, muốn đến gây chiến; liền nói với Thiên tử Tú-tì-lê: [43]

“Bố [44] biết không, A-tu-la đem bốn binh chủng là tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh muốn gây chiến với trời Tam Thập Tam! Bố hãy ra lệnh chư Thiên trời Tam Thập Tam đem bốn binh chủng là tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh, cùng đánh với A-tu-la kia.”

Bấy giờ, Thiên tử Tú-tì-lê vâng lệnh Đế Thích trở về Thiên cung. Nhưng ông biéng nhác, lơi lỏng, không nỗ lực chuẩn bị. Quân A-tu-la đã ra đường lộ. Đế Thích nghe như vậy, lại nói với với thiên tử Tu-tỳ-lê:

“Này Bố, quân A-tu-la đã ra giữa đường lộ, Bố hãy cấp tốc ra lịnh khởi bốn binh chủng ra đánh với A-tu-la.”

Thiên tử Tú-tì-lê vâng lệnh Đế Thích trở lại Thiên cung; biếng nhac, lơi long. Khi ấy vua A-tu-la đem quân áp sát. Thích Đề-hoàn Nhân nghe quân A-tu-la đã áp sát, lại nói với với Thiên tử Tú-tì-lê:

 [294b] “Bố có biết chăng? Quân A-tu-la đã áp sát. Bố hãy cấp tốc ra lịnh chư Thiên hưng khởi bốn binh chủng.”

Khi ấy Thiên tử Tú-tì-lê liền nói kệ:

Nơi nào không cần gắng, [45]

Vô vi mà an vui;

Người được chỗ như vậy,

Không làm, cũng không lo. [46]

Hãy cho tôi chỗ ấy,

Để tôi được an ổn.

Đế Thích nói kệ đáp lại:

Nơi nào không cần gắng,

Vô vi mà an vui;

Nếu người được chỗ ấy,

Không làm, cũng không lo.

Nếu ông được chỗ ấy,

Hãy đưa ta đến đó.

Thiên tử Túc-tỳ-lê lại nói kệ:

Nơi không cần nỗ lực, [47]

Không gắng, mà vui an;

Nếu ai được chỗ ấy,

Không làm, cũng không lo.

Hãy cho tôi chốn ấy,

Để tôi được an ổn.

Đế Thích lại nói kệ đáp:

Nơi không cần nỗ lực,

Không gắng, mà vui an;

Nếu ai được chỗ ấy,

Không làm, cũng không lo.

Nếu ông được chỗ ấy,

Hãy đưa ta đến đó.

Thiên tử Tú-tì-lê lại nói kệ:

Nếu nơi không buông lung,

Không gắng, mà vui an;

Nếu ai được chỗ ấy,

Không làm, cũng không lo.

Nên cho tôi nơi ấy,

Để tôi được an ổn.

Đế Thích lại nói kệ:

Nếu nơi không buông lung,

Không gắng, mà vui an;

Nếu ai được chỗ ấy,

Thì không tạo, không lo.

Nếu ông được chỗ ấy,

Hãy đưa ta đến đó.

Tú-tì-lê lại nói kệ:

Biếng nhác, không phấn khởì,     

Không biết làm, đã làm;

Nhưng hành dục hội đủ:

Hãy cho tôi chỗ ấy.

Đế Thích lại nói kệ:

 [294c]Biếng nhác, không phấn khởì,       

Mà rốt ráo an vui :

Nếu ông được chỗ ấy,

Hãy đưa ta đến đó.

Thiên tử Tú-tì-lê lại nói kệ:

Vô sự, vẫn an vui,

Không làm, cũng không lo:

Hãy cho tôi chỗ ấy,

Đẻ̀ tôi được an vui.

Đế Thích lại nói kệ:

Thấy hoặc nghe nơi nào,

Chúng sanh không làm gì:

Nếu ông được chỗ ấy,

Hãy đưa ta đến đó.

Nếu sợ việc cần làm,

Chẳng nghĩ đến hữu vi;

Hãy nhanh chóng dọn sạch

Đường dẫn đến Niết-bàn. [48]

Khi ấy, Thiên tử Tú-tì-lê chỉnh bị bị bốn binh là tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh, cùng đánh với A-tu-la, diệt hết quân A-tu-la. Chư Thiên đắc thắng trở về cung trời.

Phật nói với các Tỳ-kheo:

“Thích Đề-hoàn Nhân khởi bốn binh chủng cùng chiến đấu với A-tu-la, nhờ tinh cần nên thắng trận. Này các Tỳ-kheo, Thích Đề-hoàn Nhân là vua Tự tại của trời Tam Thập Tam, thường nhờ phương tiện tinh cần, cũng thường khen ngợi đức tinh cần. Tỳ-kheo các ngươi chánh tín, xuất gia, học đạo, sống không nhà cũng nên tinh cần tinh tấn, và khen ngợi tinh cần.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1020. TIÊN NHÂN [49]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Vào thời quá khứ, một tụ lạc nọ, có các Tiên nhơn dừng nghỉ tại khu rừng ngoài biên tụ lạc ấy. Lúc đó chư thiên và A-tu-la đang bày trận đánh nhau cách tụ lạc không xa. Bấy giờ, Vua A-tu-la là Tì-ma-chất-đa-la dẹp đi năm loại trang sức, [50] bỏ mũ thiên quan, dẹp dù lọng, bỏ gươm đao, vứt quạt báu, cởi giày dép, đến chỗ ở các Tiên nhơn kia. Vào trong cửa, nhìn khắp mà không ngó ngàng các Tiên nhơn, cũng không chào hỏi. Nhìn rồi trở ra.

“Khi ấy có một Tiên nhơn từ xa trông thấy Vua A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la dẹp đi năm thứ trang sức vào trong vườn, quan sát xong rồi trở ra. Thấy vậy, vị này nói với các Tiên nhơn rằng: ‘Đây là những loại người gì mà dung sắc không trấn tĩnh, không giống như hình người, không đúng pháp oai nghi, giống như [295a] con nhà đồng ruộng, không phải là con nhà trưởng giả; dẹp đi năm thứ trang sức, vào cửa vườn, nhìn quanh cao ngạo, mà không ngó ngàng hỏi thăm các Tiên nhơn?’

Có một Tiên nhơn đáp rằng:

“Đó là Tì-ma-chất-đa-la, Vua A-tu-la,  dẹp đi năm thứ trang sức, vào xem xét rồi đi.”

Tiên nhơn kia nói:

“Đây không phải hiền sĩ, không tốt, bất thiện, không phải Hiền Thánh, phi pháp, dẹp đi năm thứ trang sức đi vào trong cửa vườn nhìn quanh rồi ra về, cũng không hề để ý chào hỏi các Tiên nhơn. Do đó mà biết Thiên chúng tăng trưởng; A-tu-la sút giảm.’

“Trong lúc ấy, Thích Đề-hoàn Nhân cởi bỏ năm thứ trang sức, đi vào trú xứ của Tiên nhơn, cùng với các Tiên nhơn chào kính, thăm hỏi an úy nhau, sau đó trở ra. Lại có Tiên nhơn thấy Thiên đế Thích cởi bỏ năm thứ trang sức mà đi vào trong cửa vườn, thăm hỏi khắp cả. Thấy vậy, vị này hỏi các Tiên nhơn: ‘Đây là người gì, có dúng săc trấn tĩnh, dáng vẻ đáng ưa, có vẻ oai nghi, không phải con nhà đồng ruộng, tợ như con nhà trưởng giả; vào trong vườn rừng cởi bỏ năm thứ trang sức, đi vào cửa vườn thăm hỏi khắp cả, sau đó mới trở ra?’

“Có Tiên nhơn đáp: ‘Đây là Thiên đế Thích, cởi bỏ năm thứ trang sức, vào trong cửa vườn thăm hỏi khắp cả rồi sau đó trở ra.’

“Tiên nhơn kia nói: ‘Đây là bậc hiền sĩ, thiện, tốt, chân thật, oai nghi, phép tắc, cởi bỏ năm thứ trang sức, vào trong cửa vườn thăm hỏi khắp cả rồi sau đó mới trở ra. Vì vậy. Hãy biết Thiên chúng tăng, chúng A-tu-la giảm.’

“Lúc ấy, Vua A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la nghe Tiên nhơn kia khen ngợi chư thiên. Nghe thế, nổi giận đùng đùng. Lúc này, có vị Tiên nhơn ở chốn hư không nghe vua A-tu-la nổi giận đùng đùng, liền đến chỗ A-tu-la vương Tì-ma-chất-đa-la nói kệ:

Tiên nhơn cố đến đây,

Xin cho sự vô úy; [51]

Nếu ngươi  cho vô úy,

Ban ân giáo Mâu-ni.

“Tì-ma-chất-đa-la dùng kệ đáp:

Cho Tiên nhơn các ông,

Không có thí vô úy.

Vì chống A-tu-la,

Mà gần gũi Đế Thích.

Thay vì cho vô uý,

Ta sẽ cho sợ hãi.

Tiên nhơn lại nói kệ:

Ai gieo hạt giống gì,

Sẽ sinh loại quả đó.

 [295b]Ta cầu xin vô úy,

Chỉ lại cho kinh sợ.

Ngưoi sẽ sợ vô cùng,

Vì geo giống kinh sợ.

“Các Tiên nhơn ngay trước mặt Vua A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la sau khi đọc chú xong, bay lên hư không đi mất. Ngay đêm ấy Vua A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la lòng cảm thấy sợ hãi, ba phen chỗi dậy, trong giấc ngủ nghe âm thanh dữ rằng: ‘Thích Đề-hoàn Nhân sẽ cất bốn binh chủng đánh nhau với A-tu-la.’ Sau khi thức dậy, trong lòng ông cảm thấy kinh hoàng, sợ hãi, lo lắng là chắc chắn sẽ chiến bại, đành phải rút lui chạy về cung A-tu-la.

“Bấy giờ, địch quân đã rút lui, đắc thắng rồi, Thiên-đế Thích đi đến trú xứ các Tiên nhơn nơi khu rừng, lễ sát chân các Tiên nhơn, rồi lui ra bốn phía trước các Tiên nhơn, hướng về Đông ngồi xuống. Lúc ấy gió Đông khởi lên, có một Tiên nhơn liền nói kệ:

Nay các ẩn sĩ này,

Xuất gia đã lâu ngày;

Nách rịn mồ hôi bẩn.

Chớ ngồi trước chiều gió.

Thiên Nhãn đổi chỗ ngồi,

Ở đây hôi khó chịu.

“Thiên-đế Thích nói kệ đáp:

Dùng mọi thứ hương hoa,

Kết lại làm tràng hoa;

Nay hương tôi ngửi được,

Còn hơn cả hương kia.

Dù ít ngửi hương này,

Nhưng chưa từng ghê, chán.”

Phật nói với các Tỳ-kheo:

“Thiên-đế Thích là vua Tự Tại của cõi trời Tam Thập Tam mà cung kính người xuất gia, cũng thường khen ngợi người xuất gia, cũng thường khen ngợi đức cung kính. Tỳ-kheo các ngươi chánh tín, xuất gia học đạo, sống không nhà, thường nên cung kính các bậc phạm hạnh, cũng nên khen ngợi đức cung kính.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1021. DIỆT SÂN [52]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ sáng sớm, Thiên-đế Thích đi đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật. Do thần lực của Đế Thích, ánh sáng từ thân tỏa ra chiếu khắp tinh xá Kỳ thọ. Khi ấy Thích Đề-hoàn Nhân nói kệ hỏi Phật:

Vì giết hại những gì,

Mà ngủ được an ổn?

Vì giết hại những gì,

Mà được không lo sợ?

 [295c]Vì sát hại những gì,

Được Cù-đàm khen ngợi?

Bấy giờ, Thế tôn nói kệ đáp:

Hại sân nhuế, hung ác,

Mà ngủ được an ổn.

Hại sân nhuế, hung ác,

Tâm được không lo sợ.

Sân nhuế là rễ độc, [53]

Hạt giống đắng tưởng ngọt; [54]

Diệt trừ hạt giống đắng,

Nên được không lo sợ.

Người kia diệt giống đắng,

Nên được Hiền Thánh khen.

Thích Đề-hoàn Nhân sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, Tùy hỷ, đảnh lễ ra về.

KINH 1022. NGUYỆT BÁT NHẬT [55]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Vào ngày mồng tám mỗi tháng, [56] bốń Đại Thiên vương ra lệnh cho các Đại thần đi xem xét nhân gian, xem những ai cúng dường cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn, tôn kính tôn thân, làm các phước đức; thấy ác đời này lo sợ tội đời sau, bố thí làm phước, thọ trì trai giới; vào các ngày mồng tám, mười bốn, mười lăm mỗi tháng, và tháng thần biến, [57] thọ giới, bố-tát. [58]

“Đến ngày mười bốn [59] sai Thái tử xuống quán sát nhân gian, những người nào phụng dưỡng cha mẹ ... cho đến thọ giới, bố-tát.

“Đến ngày mười lăm, [60] bốn Đại Thiên vương đích thân xuống thế gian xem xét chúng sanh, xem những ai phụng dưỡng cha mẹ ... cho đến thọ giợi, bố-tát.

“Này các Tỳ-kheo, lúc bấy giờ thế gian không có nhiều người phụng dưỡng cha mẹ ... cho đến thọ giới, bố-tát. Bấy giờ, bốn Đại Thiên vương đến giảng đường Tập pháp, [61] cõi trời Tam Thập Tam, thưa với Thiên-đế́ Thích:

“ - Tâu Thiên vương, nên biết, ngày nay thế gian không có nhiều người phụng dưỡng cha mẹ ... cho đến thọ giới, bố-tát.

“Khi ấy Thiên chúng cõi trời Tam Thập Tam nghe như vậy không vui, nói chuyền với nhau:

“ - Người thế gian bây giờ không hiền, không thiện, không tốt, không xứng đáng, không hành chơn thật, không phụng dưỡng cha mẹ ... cho đến không thọ giới, bố-tát. Vì tội ấy nên chúng chư Thiên giảm, và chúng A-tu-la càng ngày càng tăng thêm.

“Này các Tỳ-kheo, thế gian lúc ấy nếu lại có nhiều người phụng dưỡng cha mẹ, ... cho đến thọ giới, bố-tát; bốn Thiên vương bèn đến  giảng đường Tập pháp, cõi trời Tam Thập Tam, tâu Thiên-đế́ Thích:

“ - Tâu Thiên vương, nên biết, thế gian ngày nay có nhiều người phụng dưỡng cha mẹ, ... cho đến thọ giới, bố-tát.”

“Khi ấy tâm chư thiên cõi Tam Thập Tam đều vui mừng, lại nói với nhau :

“Ngày nay, các thế gian đều hiền thiện chơn thật như pháp, có nhiều người [296a] phụng dưỡng cha mẹ, cho đến thọ giới, bố-tát. Nhờ phước đức này nên chúng A-tu-la giảm, chúng chư thiên tăng thêm.

“Bấy giờ Thiên-đế Thích biết các chúng chư thiên đều vui mừng, liền nói kệ:

Những ai ngày mồng tám,

Mười bốn, ngày mười lăm;

Và đến tháng thần biến,

Thọ trì  trai tám chi.

Như ta đã từng tu,

Họ cũng tu như vậy.”

Bấy giờ Thế tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Bài kệ mà Thiên-đế Thích kia đã nói, rằng:

Những ai ngày mồng tám,

Mười bốn, ngày mười lăm;

Và đến tháng thần biến,

Thọ trì  trai tám chi.

Như ta đã từng tu,

Họ cũng tu như vậy.

“Những lời này không phải phải là khéo nói. Vì sao? Thiên-đế Thích kia còn có tham, sân, si nên không thoát khỏi sinh, già, bệnh chết, ưu, bi, khổ, não. Tỳ-kheo A-la-hán, các lậu đã tận, việc cần làm đã làm xong, lìa các gánh nặng, đoạn các hữu kết, tâm khéo giải thoát, vị ấy nói kệ này:

Những ai ngày mồng tám,

Mười bốn, ngày mười lăm;

Và đến tháng thần biến,

Thọ trì bát trai giới.

Như ta đã từng tu,

Họ cũng tu như vậy.

“Những lời nói như vậy mới là lời khéo. Vì sao? Tỳ-kheo A-la-hán đã lìa tham, sân, si, đã thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não. Cho nên bài kệ này là những lời nói khéo.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1023. BỆNH [62]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Vào thời quá khứ, Vua A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la bị bệnh rất nặng, đi đến chỗ Thích Đề-hoàn Nhân, nói với Thích Đề-hoàn Nhân rằng: ‘Kiều-thi-ca, nên biết, hiện nay tôi đang bị bệnh rất nặng. Xin vì tôi trị liệu cho được an ổn.’ 

“Thích Đề-hoàn Nhân nói với vua A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la: ‘Ông hãy trao huyễn pháp [63] cho ta, ta [296b] sẽ trị bệnh cho ông được an ổn.’

“A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la nói với Đế Thích: ‘Tôi sẽ trở về hỏi chúng A-tu-la. Nếu họ bằng lòng, tôi sẽ trao huyễn pháp của A-tu-la cho Đế Thích.’

“Lúc ấy, A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la trở về trong chúng A-tu-la, nói với các A-tu-la: ‘Mọi người nên biết, nay ta bị bệnh nặng. Ta đến chỗ Thích Đề-hoàn Nhân nhờ trị bệnh. Đế Thích nói ta rằng: ‘Ông hãy trao huyễn pháp của A-tu-la cho ta, sẽ trị bệnh cho Ông được an ổn.’ Bây giờ ta sẽ đi nói huyễn pháp của A-tu-la cho Đế Thích.’

“Khi ấy có một A-tu-la trá ngụy nói với với A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la: ‘Thiên đế Thích kia là người chất trực, trọng tín, không hư dối. Chỉ nói với ông ta rằng: ‘Thiên vương, nếu người nào học huyễn pháp của A-tu-la, nó sẽ đọa địa ngục, chịu tội vô lượng trăm nghìn năm.’ Thiên-đế Thích kia chắc chắn sẽ thôi, không còn ý muốn học nữa, và ông ta sẽ nói: ‘Ông hãy đi. Mong cho bệnh ông thuyên giảm, được an ổn.’

“Vua A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la lại đi đến chỗ Đế Thích nói kệ rằng:

Bậc Thiên vương Thiên Nhãn,

Huyễn thuật A-tu-la;

Đều là pháp giả dối,

Khiến người đoạ địa ngục.

Vô lượng trăm nghìn năm,

Chịu khổ không dừng nghỉ.

“Lúc ấy, Thiên-đế Thích nói với A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la: ‘Thôi, thôi, huyễn thuật như vậy không phải là pháp ta cần. Ông hãy trở về. Mong cho thân bệnh của ông được lành, được an ổn khỏe mạnh.’”

Phật nói với các Tỳ-kheo:

“Thích Đề-hoàn Nhân là vua Tự tại nơi cõi trời Tam Thập Tam luôn luôn chơn thật, không hư, không ngụy, hiền thiện, chất trực. Tỳ-kheo các ngươi, chánh tín, xuất gia học đạo, sống không nhà, cũng nên không hư, không ngụy, hiền thiện, chất trực. Hãy học như vậy.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1024. BÀ-TRĨ [64]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Một hôm, Thiên-đế Thích cùng với Bà-trĩ A-tu-la vương, con trai của Tì-lô-xá-na [65] có diện mạo tuyệt đẹp, sáng sớm cả hai đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên. [296c] Các ánh sáng từ thân Thiên-đế Thích và Bà-trĩ A-tu-la vương, con trai của Tì-lư-xá-na,  lúc ấy tỏa ra chiếu khắp vườn Cấp Cô Độc.”

Khi ấy Bà-trĩ A-tu-la vương, con trai của Tì-lô-xá-na, nói kệ bạch Phật:

Con người cần siêng năng,

Để thỏa mãn điều lợi.

Lợi này đã đủ rồi,

Cần gì phải siêng năng? [66]

Thiên-đế Thích lại nói kệ:

Nếu người cần siêng năng,

Để thoả mãn điều lợỉ.

Lợi này đã đủ rồi,

Tu nhẫn không gì hơn.

Nói kệ xong, cả hai cùng bạch Phật:

“Bạch Thế tôn, bài kệ nào được khéo nói?”

Thế tôn nói với:

“Những điều các ông nói, cả hai đều nói khéo. Nhưng bây giờ các vị hãy lắng nghe Ta nói:

Tất cả loài chúng sanh,

Thảy đều cầu tự lợi.

Mỗí mỗi chúng sanh kia,

Đều mong điều mình cần.

Các hòa hợp thế gian ,

Cùng với đệ nhất nghĩa; [67]

Nên biết hòa hợp đời,

Vốǹ là pháp không thường.

Nếu người cần siêng năng,

Để thoả mãn điều lợi;

Lợi này thỏa mãn̉ rồi,

Tu nhẫn không gì hơn.

“Thiên-đế Thích cùng với vua A-tu-la Bề̀-lư-xá-na sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ làm lễ ra về.”

Lúc bấy giờ, Thế tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Thích Đề-hoàn Nhân là vua Tự Tại của trời Tam Thập Tam, tu hạnh nhẫn, khen ngợi nhẫn. Tỳ-kheo các ngươi chánh tín, xuất gia học đạo, sống không nhà, cũng nên tu hạnh nhẫn, khen ngợi nhẫn như vậy.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1025. THỆ ỨƠC [68]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Thời quá khư, có vị Thiên-đế Thích bạch Phật rằng: ‘Bạch Thế tôn, hôm nay con thọ giới như vầy: Cho đến khi Phật pháp còn tồn tại ở thế gian, suốt đời con, [297a] nếu có người nào xúc não con, con sẽ không xúc não lại người kia.’

“Lúc ấy A-tu-la vương Tì-ma-chất-đa-la nghe Thiên-đế Thích thọ giới như vầy: Cho đến khi Phật pháp còn tồn tại ở thế gian, suốt đời con, nếu có người nào xúc não con, con sẽ không xúc não lại người kia.’ Nghe vậy, ông bèn xách gươm bén, ngược đường đi tới. Lúc ấy, Thiên-đế Thích từ xa trông thấy vua A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la cầm gươm bén ngược đường đi tới, liền từ xa nói: A-tu-la đứng lại! Ông đã bị trói, không được cử động!.’Vua A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la liền không cử động được; bèn nói với Đế Thích: ‘Há không phải ông đã thọ giới như vầy: Nếu Phật pháp tồn tại ở thế gian, suốt đời con nếu có người nào xúc não con, con sẽ không xúc não lại người kia?’

“Thiên-đế Thích đáp: ‘Tôi thật có thọ giới như vậy. Nhưng ngươi  tự đứng lại chịu trói.’

“A-tu-la nói: ‘Bây giờ hãy thả tôi ra.’

“Thiên-đế Thích đáp: Nếu ông hứa thề không làm loạn, ta sẽ buông tha ông.’ A-tu-la nói: ‘Thả tôi ra, sẽ làm đúng như pháp.’

“Đế Thích đáp: ‘Trước hết, ông phải làm đúng như pháp, sau đó thả ông ra.’

“Vua A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la liền nói kệ:

Nơi tham dục rơi vào,

Nơi sân nhuế rơi vào;

Nơi vọng ngữ rơi vào,

Nơi phạm Thánh rơi vào:

Nếu ta gây não loạn,

Ta sẽ rơi vào đó.

“Thích Đề-hoàn Nhân lại nói: ‘Tha cho ông đi, tùy ý được an ổn.’

“Thiên-đế Thích, sau khi bắt buộc vua A-tu-la phải ước thề xong, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“ - Bạch Thế tôn. Con ở trước Phật thọ giới như vậy: ‘Cho đến Phật pháp tồn tại thế gian, suốt đời con nếu có người nào xúc não con, con sẽ không xúc não lại người kia.’ Vua A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la nghe con thọ giới, tay xách gươm bén theo đường tới. Con trông thấy từ xa và nói với: ‘A-tu-la. Đứng lại. Đứng lại. Ông đã bị trói. Không được cử động.’ A-tu-la kia nói: ‘Ông không có thọ giới sao?’ Con liền đáp: ‘Tôi thật có thọ giới. Nay ông hãy đứng im. Ông đã bị trói, không được cử động.’ Vua A-tu-la xin được cứu thoát. Con nói với y: ‘Nếu ước thề là không gây nhiễu hại thì ngươi sẽ được cứu thoát.’ A-tu-la nói: ‘Hãy thả tôi ra, tôi hứa sẽ thề.’ Con liền nói: ‘Nói lời thề ước trước, sau đó thả ông.’A-tu-la liền nói kệ ước thề:

Chỗ tham dục rơi vào,

Chỗ sân nhuế rơi vào;

Chỗ vọng ngữ rơi vào,

Chỗ phạm Thánh rơi vào:

 [297b]Nếu ta gây não loạn,

Ta sẽ rơi vào đó.

“Như vậy, bạch Thế tôn, con muốn khiến vua A-tu-la phải nói lời ước thề, vậy có đúng pháp không? A-tu-la kia có gây nhiễu hại nữa không?

“Phật nói với Thiên-đế Thích:

“ - Lành thay! Lành thay! Ông muốn A-tu-la nói lời ước thề như vậy, là đúng pháp, không trái. A-tu-la cũng không dám làm nhiễu hại nữa.

“Thiên-đế Thích sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ,  đảnh lễ ra về̀.”

Thế tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Thiên-đế Thích kia là vua Tự Tại của trời Tam Thập Tam, không bị nhiễu hại, cũng thường khen ngợi pháp không nhiễu hại. Tỳ-kheo các ngươi chánh tín, xuất gia học đạo, sống không nhà, cũng nên không nhiễu loạn, cũng nên khen ngợi pháp không nhiễu hại như vậy.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. [69]

KINH 1026. TỔ CHIM [70]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Vào thời quá khứ, chư Thiên và A-tu-la dàn trận đánh nhau; A-tu-la thắng, chư Thiên thua. Lúc ấy, quân của Thiên-đế Thích thua, thối lui tan rã, nên rất sợ hãi, quay xe chạy theo hướng Bắc, trở về cung trời, qua đường tắt trong rừng rậm dưới chân núi Tu-di. Nơi đây có một ổ kim sí điểu, [71] có nhiều chim con cánh vàng. Lúc ấy Đế Thích sợ xe ngựa đi qua sẽ cán chết những chim con, liền bảo người đánh xe rằng:

“Hãy quay xe lại, chớ giết những chim con!”

Người đánh xe tâu vua:

“Quân A-tu-la đang đuổi theo người phía sau, nếu quay xe lại sẽ bị khốn.”

Đế Thích bảo:

“Thà nên quay lại bị A-tu-la giết, chứ không để quân lính dẫm chết chúng sanh.”

Người đánh xe, quay xe trở lại hướng Nam. Quân A-tu-la từ xa trông thấy xe Đế Thích quay lại, cho rằng đó là chiến sách nên vội rút lui lại. Quân lính rất sợ hãi, thua trận chạy tán loạn trở về cung A-tu-la.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Thiên-đế Thích kia là vua Tự Tại của trời Ba mươi ba, nhờ từ tâm nên có oai lực dẹp được quân A-tu-la, và cũng thường tán thán công đức từ tâm. Tỳ-kheo các ngươi chánh tín xuất gia học đạo, không nhà, phải tu tập từ tâm, và cũng nên tán thán công đức từ tâm.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1027. NGƯÒI NGHÈO [72]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn trúc Ca-lan-đà, tại thành Vương Xá. Bấy giờ, trong thành Vương Xá có một người bần cùng, khổ cực, nhưng tin [73] Phật, Pháp và Tăng, giữ gìn cấm giới, học rộng nghe nhiều, ra sức bố thí, thành tựu chánh kiến. Người này sau khi mạng chung được sinh lên trời. Sau khi sinh về cõi trời Ba mươi ba, có ba điểm thù thắng hơn những vị trời Ba mươi ba khác. Những gì là ba? Đó là được tuổi thọ trời, sắc đẹp trời, tiếng khen trời. Các trời Ba mươi ba thấy Thiên tử này có ba đặc biệt hơn về tuổi thọ trời, sắc đẹp trời, tiếng khen trời; họ thấy rồi, bèn đến chỗ Thiên-đế Thích, nói như vầy:

“Kiều-thi-ca nên biết! có một Thiên tử vừa sinh cõi trời này; đối với những vị Thiên tử cũ, có ba đặc thù hơn là tuổi thọ trời, sắc đẹp trời, tiếng khen trời.”

Khi ấy Thiên-đế Thích nói với Thiên tử này rằng:

“Chư nhơn giả! Tôi biết người này trước đây làm một người bần cùng nghèo khổ ở thành Vương Xá, nhưng đối với pháp luật của Như lai, rất có lòng tin,... cho đến thành tựu chánh kiến. Cho nên, khi thân hoại mạng chung được sinh lên cõi trời này, và có điểm thù thắng hơn những vị trời Ba mươi ba khác, là tuổi thọ trời, sắc đẹp trời, tiếng khen trời.”

Rồi Thiên-đế Thích liền nói kệ:

Chánh tín đối Như lai,

Nhất định không dao động;

Thọ trì giới chơn thật,

Không nhàm chán Thánh giới.

Đối Phật tâm thanh tịnh,

Đối chánh kiến thành tựu;

Nên biết không nghèo khổ,

Tự sống không vô ích.

Nên đối Phật, Pháp, Tăng,

Khởi lòng tin thanh tịnh;

Trí tuệ càng sáng hơn,

Nhớ nghĩ lời Phật dạy.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1028. ĐẠI TẾ TỰ (1) [74]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn trúc Ca-lan-đà, tại thành Vương Xá. Bấy giờ, dân chúng thành Vương Xá mở đại hội rộng rãi, mời hết các đạo khác nhau.

Có một người ngoại đạo Giá-la-ca [75] tự nghĩ: ‘Nay ta thỉnh vị Trời ngoại đạo là Giá-la-ca [76] làm phước điền trước.’ Hoặc những người theo ngoại đạo xuất gia; hoặc  người theo đạo Ni-kiền Tử; hoặc người theo đạo Lão đệ tử; hoặc theo đệ tử đạo thờ lửa. Trong đó có những người theo Tăng đệ tử Phật,tự nghĩ: ‘Nay hãy trươc hãy thỉnh Tăng mà đứng đầu là Phật [77] để làm ruộng phước.’

Bấy giờ, Thiên-đế Thích tự nghĩ: ‘Chớ để cho dân chúng thành Vương –xá bỏ Tăng đứng đàu là Phật mà đi thờ những đạo khác để cầu phước điền. Ta nên  nhanh chóng đến vì người thành Vương Xá mà kiến lập phước điền.’ Liền hoá ra một Đại Bà-la-môn, tướng mạo nghiêm chỉnh, đi xe ngựa trắng, có các thiếu niên Bà-la-môn hộ tống trước sau, cầm dù lọng cán vàng đến thành Vương Xá, đi khắp mọi nơi trong hội chúng. Bấy giờ, tất cả nam nữ thành Vương Xá đều tự nghĩ: ‘Phải nhìn xem nơi phụng sự của vị Bà-la-môn này, rồi ta sẽ theo họ để cúng dường cầu ruộng phước tốt trước nhất.’

Lúc này Thiên-đế Thích biết rõ tất cả ý nghĩ của nam nữ thành Vương Xá, bèn đánh xe dẫn đầu, theo đường hẹp đến núi Kỳ-xà-quật, đến ngoài cửa, bỏ hết năm thứ trang sức, đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên, nói kệ:

Khéo phân biệt hiển bày,

Hết thảy pháp bờ kia;

Qua khỏi mọi sợ hãi,

Nên kính lễ Cù-đàm.

Mọi người mở hội khắp,

Muốn cầu công đức lớn;

Người người mở đại thí,

Thường cầu quả hữu dư.

Xin Ngài nói ruộng phước,

Khiến người thí được quả.

 

Ở núi Kỳ-xà-quật,

Đức Đại sư trả lời,

Điều hỏi của vua trời,

Đế Thích đại Tự Tại.

Mọi người mở hội khắp,

Muốn cầu công đức lớn;

Người người mở đại thí,

Thường cầu quả hữu dư.

Nay nói về ruộng phước,

Bố thí được quả lớn;

Chánh hướng gồm có bốn, [78]

Trụ Thánh quả cũng bốn. [79]

Gọi là  Tăng ruộng phước .

Minh hạnh, định đầy đủ;

Ruộng phước Tăng thêm rộng,

Vô lượng vượt biển cả.

Đệ tử Điều Ngự Sư,

Sáng soi bày chánh pháp;

Khéo cúng dường nơi này,

Cúng Tăng, phước điền tốt.

Tăng là ruộng phước tốt,

Phật nói được quả lớn;

Vì Tăng lìa năm cái,

Thanh tịnh, đáng tán thán;

Cúng Tăng, ruộng tối thượng,

Cúng ít, thâu lợi nhiều.

Vậy hết thảy mọi người,

Nên cúng ruộng phước Tăng;

Pháp thắng diệu càng được ,

Minh hạnh, định tương ưng.

Cúng Tăng trân bảo này,

Tâm thí chủ hoan hỷ;

Phát sinh ba thứ tâm,

Thí y phục, ẩm thực.

Lìa kiếm nhọn trần cấu ,

Vượt qua các đường ác;

Tự thân đi mời thỉnh,

Tự tay cúng bình đẳng.

Tự lợi cũng lợi người,

Thí này được lợi lớn;

Người trí thí như vậy,

Tịnh tín tâm giải thoát.

Thí an lạc không tội,

Nương trí vãng sinh kia.

Sau khi Đế Thích nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tuỳ hỷ lễ Phật rồi biến mất.

Bấy giờ, dân chúng thành Vương Xá liền từ chỗ ngồi đứng dậy sửa lại y phục, lễ Phật, chấp tay bạch Phật:

“Thưa Thế tôn! Cúi xin Thế tôn và đại chúng nhận sự cúng dường của chúng con.”

Bấy giờ, Thế tôn im lặng nhận lời.

Dân chúng thành Vương Xá biết Thế tôn đã im lặng nhận lời mời của họ rồi, làm lễ ra về. Họ về các nơi đại hội, chuẩn bị thức ăn và sắp xếp bàn ghế. Sáng sớm, sai người đến bạch Phật: ‘Đã đến thời! Xin Ngài biết cho.’

Bấy giờ, Thế tôn và đại chúng đắp y, ôm bát đến chỗ đại hội, trải toà ngồi trước đại chúng. Nhân dân thành Vương Xá biết Phật đã ngồi yên, tự làm đồ ăn thức uống tươi tốt. Thọ trai rồi, rửa bát, xỉa răng xong, họ trở về chỗ cũ nghe Phật nói pháp. Bấy giờ, Thế tôn vì dân chúng thành Vương Xá thuyết pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, và làm cho hoan hỷ xong, từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.

 

KINH 1029. ĐẠI TẾ TỰ (2) [80]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật, tại thành Vương Xá. Nói đầy đủ như kinh trên, chỉ có một vài sai biệt là:

Lúc ấy, Thiên-đế Thích nói bài kệ khác hỏi Phật:

Nay xin hỏi Cù-đàm,

Tuệ vi diệu sâu kín;

Thế tôn đã thể nhập,

Thấy biết không chướng ngại.

Dân chúng thiết lập đại hội khắp, nói đầy đủ như trên … cho đến vì dân chúng thành Vương Xá mà thuyết pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, làm cho hoan hỷ xong, từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.


 [1] Tương ưng Đé thích, gồm các kinh Đại chánh, kinh 1104-1228 (quyển 40 và phần đầu quyển 41). Quốc dịch, quyển 34, “Tụng vii. 3. Tương ưng Đế Thích” 2 phẩm. Ấn Thuận Hội biên, “Tụng viii. Tám chúng. 19. Tương ưng Đế Thích” 22 kinh: 1207-1228. Phật quang, quyển 40. Tương đương Pāli, S. 11. Sakkasaṃyutta.

 [2] Đại chánh, kinh 1104. Quốc dịch, Phẩm 1. Pāli, S. 11. 11. Vatapada. Biệt dịch, No 100(33).

 [3] Thất chủng thọ 七種受. Pāli: satta vatapadāni, bảy cấm giới.

 [4] No 100(33): không khởi sân nhuế. S.11.11: akkodhano.

 [5] Giải thoát thí 解脫施. Pāli: muttacāga, huệ thí một cách rộng rãi.

 [6] Đại chánh, kinh 1105. Pāli, S. 11. 13. Mahāli. Biệt dịch, No 100(34).

 [7] Li-xa Ma-ha-lị 離車名摩訶利. Pāli: Mahāli Licchavī.

 [8] Pāli: so hi nūna… sakkapatirūpako bhavissati; duddaso hi sakko devānam indo, „không phải Đế Thich đâu, mà chỉ là giống Đế Thích thôi; Thiên đế Thích khó thấy lắm.“

 [9] Đại chánh, kinh 1106. Pāli, S. 11. 12. Sakkanāma. Biệt dịch, No 100(35).

 [10] Thích Đề-hoàn Nhơn 釋提桓因. Pāli: Sakko Devānaṃ Indo.

 [11] Định nghĩa của Pāli: sakkaccaṃ dāna adāsi tasmā kko ti vuccati, vì bố thí một cách cung kinh (sakkaccaṃ), nên được gọi la Sakka (Thích).

 [12] Phú-lan-đà-la 富蘭陀羅. Pāli: Purindado.

 [13] Định nghĩa của Pāli: pure dānam adāsi tasmā purindado ti vuccati, do bố thí nơi thị tứ (pura) nên được gọi là Purindado.

 [14] Ma-già-ba 摩伽婆. Pāli: Maghavā.

 [15] Pāli: pubbe manussabhūto samāno gho nāma māṇavo ahosi, trước kia, khi còn là loài người, ông là thiếu niên tên là Magha.

 [16] Bà-sa-ba 婆娑婆. Pāli: Vāsava.

 [17] Bà-tiên-hòa 婆詵和. Bản  Cao-ly: tư 私. Pāli: āvasatha (nhà ở), bản Hán hiểu là vasana (y phục). Định nghiã của Pāli: pubbe... āvasatham adāsi tasamā Vāsavo ti vuccati, trước kia, do bố thí nhà ở (āvasatha), nên được gọi là Vāsava. ā

 [18] Kiều-thi-ca 憍尸迦. Pāli: Kosiya (Kosika).

 [19] Pāli: Kosiya.

 [20] Xá-chỉ-bát-đê 舍脂缽低. Pāli: Sujampati, “chồng của Bà Sujā.”

 [21] Thiên nhãn 千眼. Pāli: Sahassakkha, hay Sahassaneta.

 [22] Nhơn-đề-lị 因提利. Phiên âm từ Skt. Indra (= Pāli: Inda).

 [23] Đại chánh, 1107. Pāli, S. 11. 2 2. Dubbaṇṇiya. Biệt dịch, N0 100(36).

 [24] Dạ-xoa 夜叉鬼. Pāli: Yakkha.

 [25] No 100(37): “Những ai nổi sân nhuế, sân chướng nặng như núi.”

 [26] Đại chánh, kinh 1108. Pāli, S. 11.24. Akodha. Biệt dịch, No 100(37).

 [27] No 100(37): không xúc phạm điều húy kỵ của người.

 [28] Đại chánh, kinh 1109. Pāli, S. 11. 5. Subhāsitaṃjaya. Biệt dịch, No 100(38).

 [29] Tì-ma-chất-đa-la 毘摩質多羅. Pāli: Vepacitta Asurinda.

 [30] No 100(39): “Ta xét thấy, để chế ngự người ngu, không gì bằng nhẫn, im lặng.”

 [31] Thiện luận nghị. Pāli: subhāsitena jayo ahosi, chiến thằng bằng thiện ngữ.

 [32] Đại chánh, kinh 1110. Pāli, S. 11. 1. 4. Vepacitti. Biệt dịch, No 100(39); No 125(34.8)

 [33] Đoán pháp điên 斷法殿. Pāli: Sudhammasabha, Thiện pháp đường.

 [34] Đại chánh, kinh 1111. Pāli, S. 11. 1 9. Satthāravandana. Biệt dịch, No 100(40).

 [35] Thường thắng điện 常勝殿. Pāli: Vejayantapāsādo, cung điện Chiên thắng.

 [36] Xá-chi phu 舍脂之夫; môt tên khác của Đế Thicch. Pāli: Sūjampati.

 [37] Hộ thế chúa 護世主; chỉ bốn Đại Thiên vương.

 [38] Đại chánh, kinh 1112. cf. S. 11. 18. Gahaṭṭhavandana. Biệt dịch, N0 100(41).

 [39] Đây là mọt kinh riêng biệt, nhưng bản Đại chánh không ghi số. Án Thuận phân thành kinh riêng. Quóc dịch phân thành kinh riêng và ghi tên kinh la “Kính pháp.” Nội dung kinh này là kính pháp như giới thiệu trong kinh số 1112. Có lẽ Có lẽ nguyên thuỷ không có. Người sau, tìm thấy nôi dung ở đâu đó nên bổ túc vào cho đủ tán Tam bảo.

 [40] Pāli: (…) dhammena dāraṃ posenti, (những Ưu-bà-tắc) như pháp nuôi dưỡng vợ. Bản Hán hiểu posenti (nuôi dưỡng) như là  (u)posatha (bố-tát).

 [41] Đại chánh, kinh 1113. Pāli: S. 11. 20. Gahaṭṭhavandana. No 100(42).

 [42] Đại chánh, kinh 1114. Quốc dịch, phẩm 2. Pāli, S. 11. 1. Suvīra. Biệt dịch, No 100(43).

 [43] Tú-tì-lê thiên tử 宿毘梨天子. Pāli: Suvīra-devaputta.

 [44] Hán: a công 阿公. Pāli; tāta Suvīra, từ xưng hô, gọi người lớn tuổi hơn, coi như cha. Cũng có thể gọi ngườ nhỏ hơn: Con thân yêu! Có lẽ nên hiểu theo nghĩa sau.

 [45] Bất khởi xứ 不起處. Pāli: anuṭṭhahaṃ, biếng nhác, không hăng hái. (do động từ uṭṭhahati = uṭṭhāti: đứng dậy, phấn khởi, hay hăng hái).

 [46] Pāli: anuṭṭhahaṃ, avāyāmaṃ, sukhaṃ yātrādhigacchati, nó đến nơi nào mà ở đó không cần hăng hái, không cần nỗ lực, nhưng an vui.

 [47] Hán: vô phương tiên 無方便. Pāli: avāyāmaṃ, không nỗ lực.

 [48] Pāli: sace atthi akammena, koci kvaci na jīvati; nibbānassa hi so maggo, suvīra tattha gacchāhi, nêu không có hành nghiệp, không có bất cứ ai tồn tại bất cứ đâu; con đương đó dẫn đến Niêt-bàn. Suvīra, hãy đi đến đó.

 [49] Đại chánh, kinh 1115. Pāli, S. 11. 9. Araññāyatana-isi; S. 11. 10. Samudaka. Biệt dịch, No 100(44)

 [50] Bản Pāli: mang nguyên cả dày, kiếm… mà vào. Bản Hán có thể nhầm, vì trái với thái độ được mô tảtrong đoạn tiếp theo.

 [51] Thí vô uý 施無畏. Pāli: abhayadakkhiṇa; các Tiên nhân này đến A-tu-la cầu xin cho mình sự an toàn.

 [52] Đại chánh, kinh 1116. Pāli, S. 11. 21. Chetvā. Biệt dịch, No 100(45).

 [53] Độc căn 毒根. TNM: độc xà. Pāli: kodhassa visamūlassa, sân hận là rễ cây độc hại.

 [54] Để bản: diệt bỉ khổ chủng tử滅彼苦種子. Bản khác: ngã điềm bỉ chủng tử. Pāli: (…) madhuragassa, (rễ đắng mà cho là) vị mật ngọt tối thượng.

 [55] Đại chánh, kinh1117. Pāli, A. 3. 37. Rājā. Biệt dịch, No 100(46).

 [56] Đây chỉ thánh 15 ngày theo lịch cổ Ấn. Nếu theo tháng 30 ngày, thì đây gồm ngày mồng 8 và ngày 23. Pāli: aṭṭhamiyaṃ pakkhassa, ngày mồng 8 mỗi (nữa) thang.

 [57] Tháng thần biến 神變月(Pāli: iddhimasā?); các tháng Giêng, tháng Năm và tháng Chín, bốn Thiên vương hiện thần thông đi quan sát nhân gian. Bản Pāli không thấy nói các tháng này.

 [58] Bố-tá, Pāli: uposatha; đây hiểu là trai giới, không ăn chiều tối.

 [59] Pāli: cātuddasiṃ pakkhassa, ngày thứ 14 mỗi (nửa) tháng, tức gồm ngày 14 và 29, hay 28 nếu tháng thiếu.

 [60] Pāli: uposathe pannarase, vào ngày trai giới, ngày thứ 15, tức ngày 15 và 30 hay 29 nếu tháng thiêu.

 [61] Tập pháp giảng đường 集法講堂; cũng gọi là Thiên pháp đường hay Chánh pháp đường. Pāli: Sudhamma-sabhā.

 [62] Đại chánh, kinh 1118. Pāli,  S.11.23. Māyā. Biệt dịch, No 100(47).

 [63] Pāli: Sambarimāyā, huyễn thuật của Sambara (tên khác của Vepacitta, A-tu-la vương).

 [64] Đại chánh, kinh 1119. Pāli, S. 11. 8. Verocana-asurinda. Biệt dịch, No 100(50).

 [65] Tì-lô-xá-na-tử Bà-trĩ A-tu-la vương 鞞盧闍那子婆稚. Cf. D.ii. 259:  satañca Baliputtānaṃ sabbe Verocanāmakā, một trăm con trai của Bali tất cả đều có tên là Vero (=Verocana).

 [66] Pāli: nipphannasobhano attho, mục đích được sáng chói khi đã được hoàn tất.

 [67] Pāli: saṃyogaparamā tveva sambhogā, các thức ăn được chế biến (Hán: hòa hiệp) thượng diệu (Hán: đệ nhất nghĩa) .

 [68] Đại chánh, kinh 1120. Pāli, S. 11. 1. 7. Nadubbiya. Biệt dịch, No 100(48).

 [69] Bản Hán, hết quyển 40.

 [70] Đại chánh, kinh 1222. Phật quang, quyển 41. Ấn thuận, Tụng viii, «19. Tương ưng Đế Thích» tiếp theo (Hội biên, kinh 1225-1228). Quốc dịch, quyển 35, Tụng vii, «3.  Tương ưng Đế Thích» tiếp theo. Tương đương Pāli, S. 11. 1. 6. Kulāvaka. Biệt dịch, No 100(49).

 [71] Kim suý điểu 金翅鳥.  (Pāli: garuḷa); S. ibid. kulāvakā simbalismiṃ, có nhưng tổ chim trên cây bông gòn.

 [72] Đại chánh, kinh 1223. Pāli, S. 11. 2. 4. Daliddo. Biệt dịch, No 100(51).

 [73] Bản Cao-ly: ư 於; bản Tống Nguyên Minh: trụ 住. Có thể dọc là tín 信. Pāli: tathāgatappaveditadhammavinaye saddhaṃ samādiyī, duy trì tín tâm nơi pháp luật được Như lai tuyên thuyết.

 [74] Đại chánh, kinh 1224. Pāli, S. 11. 2. 6. Yajamānaṃ. Biệt dịch, No 100(52).

 [75] Giá-la-ca 遮羅迦 (Pāli: caraka), tu sỹ lang thang, thuộc nhóm hành trì theo Yajur-veda (Tế tự Vê-đà). Pāli, S.ibid. không có chi tiết này.

 [76] Giá-la-ca 遮羅迦 ( Pāli: Caraka), tên một ẩn sỹ cũng là y sỹ, truyền Āyur-Veda, thường đi lang thang khắp nơi để trị binh cho người đời.

 [77] Cf. Sn.111, Jā iii.51: buddha-pamukhaṃ bhikkhúaṅghaṃ nimantetvā.

 [78] Chỉ Dự lưu hướng cho đến A-la-hán hướng. Pāli: cattāro ca paṭipannā.

 [79] Bốn Thánh quả, từ Dự lưu, cho đến A-la-hán. Pāli: cattāro ca phale ṭhitā.

 [80] Đại chánh, kinh 1225. Tham chiếu kinh 1224.