39. Tương Ưng Dạ-xoa, Kinh 1233-1244

39. TƯƠNG ƯNG DẠ-XOA [1]

KINH 1233. KHUÂT-MA [2]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật trú tại nước Ma-kiệt-đà, du hành trong nhân gian. Vào buổi chiều hôm, cùng với năm trăm Tỳ-kheo nghỉ đêm nơi trú xứ quỷ Dạ-xoa Khuất-ma [3]. Bấy giờ, quỷ Dạ-xoa Khuất-ma [4] đi đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, quỷ Dạ-xoa bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, hôm nay thỉnh Thế Tôn và đại chúng nghỉ đêm nơi nầy.”

Thế Tôn im lặng nhận lời mời. Quỷ Dạ-xoa Khuất-ma biết Thế Tôn đã im lặng nhận lời mời rồi, liền hóa ra năm trăm tòa lầu các; phòng xá, giường nằm, ghế ngồi, màn, nệm, gối. Mỗi thứ năm trăm cái đầy đủ, tất cả đều do biến hóa mà thành; rồi lại hóa ra năm trăm ngọn đèn sáng trưng không có khói tỏa. Sau khi hóa xong, nó đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, ân cần thỉnh Thế Tôn vào phòng và mời các Tỳ-kheo lần lượt nhận phòng ốc cùng ngọa cụ. Sau khi công việc đã xong xuôi, nó trở lại chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, nói kệ:

Hiền đức có chánh niệm,

Hiền đức luôn chánh niệm;

Chánh niệm ngủ an ổn,

Đời này cùng đời khác.

Hiền đức có chánh niệm,

Hiền đức luôn chánh niệm;

Chánh niệm ngủ an ổn,

Tâm kia thường dừng lặng.

Hiền đức có chánh niệm,

Hiền đức luôn chánh niệm;

Chánh niệm ngủ an ổn, 

Xả, hàng phục quân khác.

Hiền đức có chánh niệm,

Hiền đức luôn chánh niệm;

Không giết không sai giết,

Không phục, không bảo phục.

Lòng từ đối tất cả,

Lòng không ôm oán kết.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo quỷ Dạ-xoa Khuất-ma:

“Đúng vậy, đúng vậy! Như những gì ông nói!”

Sau khi quỷ Dạ-xoa Khuất-ma nghe những gì Phật nói, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ dưới chân Phật, trở về chỗ mình ở.

KINH 1234. MA-CƯU-LA [5]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại núi Ma-cưu-la [6], Tôn giả [362b] Na-già-ba-la [7] làm thị giả. Bấy giờ đêm tối, trời mưa nhỏ, có chớp lóe, Thế Tôn ra khỏi phòng, đi kinh hành nơi đất trống. Lúc ấy, Thiên đế Thích tự nghĩ: ‘Hôm nay Thế Tôn ở tại núi Ma-cưu-la, Tôn giả Na-già-ba-la gần gũi hầu hạ cung dưỡng. Đêm tối, trời mưa nhỏ, có chớp lóe, Thế Tôn ra khỏi phòng, đi kinh hành nơi đất trống. Ta sẽ hóa ra ngôi nhà sàn bằng pha-lê, rồi bưng ngôi nhà sàn ấy, theo Phật kinh hành.’ Nghĩ vậy xong, liền hóa ra ngôi nhà sàn bằng pha lê, mang đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi theo Phật đi kinh hành.

Bấy giờ, dân chúng nước Ma-kiệt-đề, nếu khi nào có bé trai, bé gái khóc đêm, họ đem quỷ Ma-cưu-la [8] ra để dọa, chúng liền ngưng khóc. Theo pháp đệ tử gần gũi hầu hạ cung dưỡng, chờ thầy an giấc thiền rồi sau đó mới đi ngủ. Bấy giờ, Thế Tôn vì Đế Thích nên ban đêm đi kinh hành lâu. Bấy giờ, Tôn giả Na-già-ba-la tự nghĩ: ‘Đêm nay Thế Tôn đi kinh hành lâu quá, ta phải giả dạng làm quỷ Ma-cưu-la để khủng bố Ngài.’ Khi ấy Tỳ-kheo Na-già-ba-la liền mặc ngược câu-chấp [9], để mặt có lông dài ra ngoài, đến đứng chận đầu đường đi kinh hành của Thế Tôn, bạch Phật:

“Quỷ Ma-cưu-la đến! Quỷ Ma-cưu-la đến!”

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tỳ-kheo Na-già-ba-la:

“Này Na-già-ba-la, ngươi là người ngu si, định dùng hình tướng quỷ Ma-cưu-la khủng bố Phật ư? Không thể làm lay động một lông tóc của Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác đã xa lìa khủng bố từ lâu!”

Khi ấy Thiên đế Thích bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, trong Chánh pháp luật của Thế Tôn cũng lại có hạng người này sao?”

Phật bảo:

“Này Kiều-thi-ca, trong ngôi nhà cực kỳ rộng rãi to lớn của Cù-đàm, những người này vào đời vị lai cũng sẽ đắc pháp thanh tịnh.”

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:

Nếu Bà-la-môn nào,

Nơi pháp tự sở đắc,

Đến được bờ bên kia;

Dù một Tỳ-xá-già [10],

Cùng với Ma-cưu-la [11],

Đều vượt qua hết thảy.

Hoặc Bà-la-môn nào,

Nơi pháp tự mình hành,

Biết tất cả các thọ,

Quán sát đều đã diệt.

Hoặc Bà-la-môn nào,

Tự mình qua bờ kia,

Hết thảy các nhân duyên,

Thảy đều đã diệt tận.

 [362c]Hoặc Bà-la-môn nào,

Tự mình qua bờ kia,

Tất cả các nhân ngã,

Thảy đều đã diệt tận.

Hoặc Bà-la-môn nào,

Tự mình qua bờ kia,

Nơi sanh, già, bệnh, chết,

Thảy đều đã vượt qua.

Phật nói kinh này xong, Thiên đế Thích nghe những gì Phật nói, hoan hỷ, tùy hỷ đảnh lễ Phật, liền biến mất.

KINH 1235. TẤT-LĂNG-GIÀ QUỶ [12]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-la-đà, thành Vương xá. Bấy giờ, Tôn giả A-na-luật-đà ở nước Ma-kiệt-đề du hành trong nhân gian, đến nghỉ đêm tại trú xứ mẹ của quỷ con Tất-lăng-già [13]. Bấy giờ, vào cuối đêm, Tôn giả A-na-luật-đà thức dậy, ngồi ngay thẳng tụng các đoạn kinh Ưu-đà-na [14], Ba-la-diên-na [15], Kiến chân đế [16], Thượng tọa sở thuyết kệ [17], Tỳ-kheo-ni sở thuyết kệ [18], Thi-lộ kệ [19], Nghĩa phẩm [20], Mâu-ni kệ [21], Tu-đa-la; tất cả đều tụng hết.

Bấy giờ quỷ con Tất-lăng-già khóc đêm, quỷ mẹ Tất-lăng-ca nói bài kệ cho con nghe để dỗ nó nín:

Này Tất-lăng-ca con,

Nay, con không được khóc;

Hãy nghe Tỳ-kheo kia

Đọc tụng kệ Pháp cú.

Nếu ai biết Pháp cú,

Tự mình hộ trì giới,

Xa lìa sự sát sanh,

Nói thật, không nói dối,

Tự bỏ điều phi nghĩa,

Giải thoát đường quỷ thần. [22]

Sau khi quỷ mẹ Tất-lăng-ca nói kệ, quỷ con Tất-lăng-già nín khóc.

KINH 1236. PHÚ-NA-BÀ-TẨU [23]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại nước Ma-kiệt-đề du hành trong nhân gian cùng với đại chúng, đến nghỉ đêm tại trụ xứ mẹ của quỷ con Phú-na-bà-tẩu [24]. Bấy giờ, Thế Tôn vì các Tỳ-kheo nói pháp tương ưng bốn Thánh đế: Khổ Thánh đế, Khổ tập Thánh đế, Khổ diệt Thánh đế, Khổ diệt đạo tích Thánh đế.

Khi ấy, quỷ mẹ Phú-na-bà-tẩu có con là quỷ con Phú-na-bà-tẩu cùng quỷ nữ Uất-đa-la [25]. Hai con quỷ nhỏ này khóc đêm. Quỷ mẹ Phú-na-bà-tẩu nói kệ dạy hai đứa con trai và gái của nó:

Này Phú-na-bà-tẩu,

Uất-đa-la, Đừng khóc!

 [363a]Để mẹ được lắng nghe,

Như Lai đang thuyết pháp.

Cha mẹ không thể nào,

Khiến con giải thoát khổ.

Nghe Như Lai thuyết pháp,

Giải thoát được khổ này.

Người đời theo ái dục,

Bị các khổ bức bách.

Như Lai vì thuyết pháp,

Khiến hủy diệt sanh tử.

Nay mẹ muốn nghe pháp,

Các con nên im lặng.”

Khi ấy Uất-đa-la,

Và Phú-na-bà-tẩu.

Đều vâng lời mẹ chúng,

Im lặng mà lắng nghe.

“Lời mẹ nói hay thay,

Con cũng thích nghe pháp.

Thế Tôn chánh giác này,

Ở Thắng sơn Ma-kiệt;

Vì các loài chúng sanh,

Diễn nói pháp vượt khổ.

Nói khổ cùng nhân khổ,

Khổ diệt, đạo diệt khổ;

Từ bốn Thánh đế này,

An ổn đến Niết-bàn.

Vậy mẹ hãy lắng nghe,

Những pháp Thế Tôn thuyết.”

Khi ấy quỷ mẹ Phú-na-bà-tẩu liền nói kệ:

“Lạ thay, con trí tuệ,

Khéo hay chìu tâm ta.

Con Phú-na-bà-tẩu,

Khéo khen Phật Đạo Sư.

Con Phú-na-bà-tẩu,

Cùng con Uất-đa-la;

Nên sanh lòng tùy hỷ,

Ta đã thấy Thánh đế.”

Sau khi, quỷ mẹ Phá-na-bà-tẩu nói kệ xong, quỷ con trai và con gái, tùy hỷ im lặng.

KINH 1237. MA-NI-GIÁ-LA [26]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại nước Ma-kiệt-đề, du hành trong nhân gian cùng với đại chúng, đến nghỉ đêm tại trú xứ của quỷ Ma-ni-giá-la [27]. Bấy giờ, quỷ Ma-ni-giá-la hội các quỷ thần, tập hợp lại một chỗ. Khi ấy có một người nữ đem hương hoa trang sức và đồ ăn thức uống đến chỗ ở quỷ thần Ma-ni-giá-la kia. Người nữ này từ xa trông thấy Thế Tôn ngồi tại trú xứ quỷ Ma-ni-giá-la; thấy rồi tự nghĩ: ‘Nay ta đang thấy quỷ thần Ma-ni-giá-la’, liền nói kệ:

Lành thay, Ma-ni-giá!

Ở nước Ma-già-đà;

 [363b]Dân nước Ma-già-đà,

Cầu gì đều như nguyện.

Làm sao ở đời này,

Thường được sống an lạc;

Còn đời sau thế nào,

Mà được sanh Thiên lạc?

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:

Chớ buông lung, kiêu mạn;

Cần gì quỷ Ma-ni?

Nếu tự sửa việc làm,

Thì được sanh Thiên lạc.

Khi ấy người nữ kia tự nghĩ: ‘Đây không phải là quỷ Ma-ni-giá-la mà là Sa-môn Cù-đàm.’ Biết như vậy rồi, cô liền đem hương hoa trang sức cúng dường Thế Tôn, đảnh lễ dưới chân, ngồi lui qua một bên, nói kệ:

Đường nào đến an lạc,

Phải tu những hành gì;

Đời này thường an ổn,

Đời sau sanh Thiên lạc?

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:

Khéo điều tâm, bố thí,

Thích giữ gìn các căn;

Chánh kiến tu hạnh hiền,

Gần gũi với Sa-môn.

Tự sống bằng chánh mạng,

Đời khác sanh Thiên lạc;

Đâu cần Tam thập tam,

Lưới khổ của chư Thiên.

Chỉ cần nhất tâm kia,

Đoạn trừ nơi ái dục.

Ta sẽ nói lìa cấu,

Pháp cam lộ khéo nghe.

Người nữ ấy nghe Phật thuyết pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, làm cho hoan hỷ; những pháp như bố thí, trì giới, phước báo sanh Thiên, vị ngọt của dục, tai hại của dục, phiền não, thanh tịnh, xuất yếu, viễn ly, công đức phước lợi, tiếp tục diễn nói pháp Phật thanh tịnh. Giống như tấm vải trắng sạch dễ nhuộm màu, người nữ kia cũng vậy, ngay trên chỗ ngồi đắc bình đẳng hiện quán [28]: Khổ, Tập, Diệt, Đạo đối với bốn Thánh đế. Lúc đó, người nữ này đắc pháp, thấy pháp, biết pháp và nhập pháp, vượt qua các nghi hoặc, không do người khác, đối với Chánh pháp luật được vô sở uý, liền từ chỗ ngồi đứng dậy sửa lại y phục, chắp tay bạch Phật:

“Con đã được độ, bạch Thế Tôn! Con đã được độ, bạch Thiện Thệ! Từ hôm nay cho đến suốt đời quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tỳ-kheo Tăng.”

Sau khi người nữ ấy nghe những gì Phật nói, hoan hỷ, tùy hỷ, lễ Phật rồi ra về.

KINH 1238. CHÂM MAO QUỶ [29]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại nước Ma-kiệt-đề, du hành trong nhân gian, [363c] đến nghỉ đêm tại trú xứ quỷ Châm Mao [30]. Bấy giờ, quỷ Châm Mao hội họp hết các quỷ thần lại một chỗ. Lúc đó có Viêm quỷ [31], thấy Thế Tôn nghỉ đêm tại trú xứ quỷ Châm Mao. Thấy rồi, nó liền đến chỗ quỷ Châm Mao nói với quỷ Châm Mao:

“Thưa thôn chủ, nay ông được nhiều may mắn. Hiện tại Đức Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác đang nghỉ tại nhà ông.”

Quỷ Châm Mao nói:

“Bây giờ, thử xem có đúng là Như Lai hay chẳng phải!”

Khi ấy, quỷ Châm Mao sau khi cùng các quỷ thần hội họp, trở về ngôi nhà của mình. Nó co mình lại xông tới Phật. Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền tránh người. Ba lần nó co mình lại xông tới Phật như vậy, Đức Phật cũng ba lần tránh người. Khi ấy, quỷ Châm Mao hỏi:

 “Sa-môn sợ ư?”

Phật bảo:

“Này thôn chủ, Ta không sợ! Nhưng ngươi có ác xúc.” [32]

Quỷ Châm Mao nói:

“Bây giờ, tôi có vài điều để hỏi. Mong vì tôi mà trả lời. Nếu có thể làm tôi vui thì tốt. Còn nếu không thể làm tôi vui thì tôi sẽ hủy hoại tâm ông, phá vỡ ngực ông, làm cho máu nóng của ông từ mặt vọt ra, nắm hai tay ông ném qua bờ bên kia sông Hằng.”

Phật bảo quỷ Châm Mao:

“Thôn chủ, Ta không thấy chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên thần, Người đời nào, có thể hủy hoại tâm của Như Lai, Đẳng Chánh Giác, có thể phá vỡ ngực Ta, có thể làm cho máu nóng từ mặt vọt ra, nắm hai tay của Ta ném qua bờ bên kia sông Hằng. Nay, ông cứ hỏi đi, Ta sẽ vì ông mà nói, khiến cho ông được hoan hỷ.”

Bấy giờ, quỷ Châm Mao nói kệ hỏi Phật:

Hết thảy tâm tham, nhuế,

Lấy gì để làm nhân?

Không vui, lông dựng đứng,

Sợ hãi từ đâu sanh?

Ý niệm các giác tưởng,

Khởi lên từ chỗ nào;

Giống như trẻ mới sanh,

Nương nhờ vào vú mẹ? [33]

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:

Ái sanh, lớn từ thân,

Như cây Ni-câu-luật;

Chằng chịt câu móc nhau,

Như dây leo rừng rậm. [34]

Nếu biết những nhân kia,

Sẽ khiến quỷ giác ngộ;

Vượt dòng biển sanh tử,

Không còn tái sanh nữa.

Bấy giờ, quỷ Châm Mao nghe Phật nói kệ, tâm được vui vẻ, sám hối Phật và xin thọ trì tam quy.

Phật nói kinh này xong, quỷ Châm Mao nghe những gì [364a] Phật nói, hoan hỷ, phụng hành. [35]

KINH 1239. QUỶ ÁM [36]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, thành Vương xá. Bấy giờ, có con trai của Ưu-bà-di [37]thọ trai tám chi [38], sau đó phạm giới, liền bị quỷ thần ám. Lúc ấy, Ưu-bà-di liền nói kệ:

Ngày mười bốn, mười lăm,

Mồng tám mỗi phần tháng [39];

Tháng điềm hiện thần thông [40],

Tám chi khéo chánh thọ.

Nơi trai giới thọ trì,

Không bị quỷ thần ám.

Xưa tôi hỏi mấy lần,

Thế Tôn nói điều này.

Lúc ấy, Quỷ kia liền nói kệ:

Ngày mười bốn, mười lăm,

Và mồng tám mỗi tháng;

Ứng tháng thần túc tốt,

Tu tám chi chánh thọ.

Sống trai giới thanh tịnh,

Khéo giữ gìn giới đức;

Không bị quỷ trêu đùa,

Lành thay, nghe từ Phật.

Theo những lời bà nói,

Ta sẽ thả con bà.

Ai có nghiệp chậm hoãn, [41]

Nhiễm ô hành khổ hạnh,

Phạm hạnh không thanh tịnh,

Trọn không được quả lớn.

Thí như nhổ cỏ may [42],

Nắm lỏng thì hại tay;

Sa-môn hành ác xúc,

Tất sẽ đọa địa ngục.

Thí như nhổ cỏ may,

Nắm chặt không hại tay;

Sa-môn khéo nhiếp trì,

Tất đến Bát-niết-bàn.

Khi ấy, Quỷ thần kia liền thả con Ưu-bà-di này ra. Bấy giờ, Ưu-bà-di nói kệ dạy con:

Nay con hãy nghe mẹ,

Nhắc lời quỷ thần nói.

 [364b]Nếu có nghiệp chậm hoãn,

Nhiễm ô tu khổ hạnh,

Phạm hạnh không thanh tịnh,

Thì không được quả lớn.

Thí như nhổ cỏ may,

Nắm lỏng thì hại tay.

Sa-môn khởi ác xúc,

Tất sẽ đọa địa ngục;

Như nắm chặt cỏ may,

Tất tay mình không hại.

Sa-môn khéo giữ gìn,

Tất đắc Bát-niết-bàn.

Khi ấy, con Ưu-bà-di tỉnh ngộ như vậy rồi, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chánh tín xuất gia học đạo, sống không nhà, nhưng tâm không được vui, trở về nhà mình. Người mẹ từ xa thấy con liền nói kệ:

Lánh tục mà xuất gia,

Tại sao trở về làng?

Nhà cháy, của kéo ra,

Sao ném vào lửa lại?

Tỳ-kheo con Ưu-bà-di kia nói kệ đáp:

Chỉ nghĩ mẹ mạng chung,

Còn mất không gặp nhau;

Nên trở về thăm viếng,

Sao thấy con không vui?

Lúc ấy, người mẹ Ưu-bà-di nói kệ đáp:

Bỏ dục mà xuất gia,

Trở về muốn thụ hưởng;

Cho nên mẹ lo buồn,

Sợ bị Ma lung lạc.

Sau khi Ưu-bà-di đã giác ngộ con mình như vậy, như vậy rồi, người con trở lại chỗ thanh vắng, tinh cần tư duy, đoạn trừ tất cả phiền não kết buộc, chứng đắc quả A-la-hán.

KINH 1240. A-LẠP QUỶ [43]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại nước Ma-kiệt-đề, du hành trong nhân gian, đến nghỉ đêm tại trú xứ của quỷ A-lạp [44]. Bấy giờ, quỷ A-lạp tập hội các quỷ thần. Lúc đó có quỷ Kiệt-đàm [45] thấy Thế Tôn nghỉ đêm tại trú xứ của quỷ A-lạp, nó liền đi đến chỗ quỷ A-lạp, nói với quỷ A-lạp:

“Này thôn chủ, ông được lợi lớn. Như Lai đã nghỉ đêm tại trú xứ ông.”

Quỷ A-lạp nói:

“Hôm nay có người sống ở tại nhà tôi sao? Bây giờ phải làm cho rõ, là Như Lai hay chẳng phải là Như Lai.”

Quỷ A-lạp sau khi cùng các quỷ thần tụ tập xong, trở lại nhà mình, nó bảo Đức Thế Tôn:

“Sa-môn, đi ra!”

Thế Tôn, vì là nhà người, liền đi ra khỏi nhà.

Quỷ A-lạp lại nói:

“Sa-môn, đi vào!”

 [364c] Đức Phật liền vào lại, vì muốn diệt kiêu mạn kia. Diễn ra ba lần như vậy. Đến lần thứ tư, quỷ A-lạp lại nói với Thế Tôn:

“Sa-môn, đi ra.”

Bấy giờ, Thế Tôn nói với quỷ A-lạp:

“Thôn chủ, đã ba lần mời rồi, bây giờ Ta không ra nữa.”

Quỷ A-lạp nói:

“Bây giờ, tôi hỏi Sa-môn. Sa-môn hãy trả lời tôi, làm cho tôi hoan hỷ thì tốt. Nếu không thể làm cho tôi hoan hỷ, tôi sẽ hủy hoại tâm của ông, làm vỡ ngực ông, làm cho máu nóng của ông từ đó vọt ra, nắm hai tay ông ném qua bờ bên kia sông Hằng.”

Thế Tôn bảo:

 

“Thôn chủ, Ta chưa từng thấy chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên thần, Người đời nào mà có thể hủy hoại tâm Ta, làm vỡ ngực Ta, làm cho máu nóng của Ta từ đó vọt ra, nắm hai tay ném qua bên kia bờ sông Hằng. Song, thôn chủ, nay ông cứ hỏi, Ta sẽ vì ông mà nói, khiến cho tâm ông được hoan hỷ.”

Khi ấy, quỷ A-lạp nói kệ hỏi Phật:

Nói những gì gọi là,

Vật tối thắng của người [46]?

Thực hành những pháp gì,

Được quả báo an lạc?

Những gì là vị ngon?

Thọ mạng nào hơn cả [47]?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Trong các vật của người,

Tịnh tín là tối thắng.

Hành pháp được quả vui.

Vị giải thoát tối thượng.

Trí tuệ trừ già, chết,

Là thọ mạng bậc nhất.

Quỷ A-lạp lại nói kệ:

Làm sao được nổi danh,

… Như kệ đã nói ở trên. [48]

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:

Trì giới lừng danh tiếng,

… Như kệ đã nói ở trên.

Khi ấy, quỷ A-lạp nói kệ:

Mấy pháp khởi thế gian?

Mấy pháp tùy thuận nhau?

Đời mấy pháp chấp thủ?

Đời mấy pháp tổn giảm? [49]

Thế Tôn nói kệ đáp:

Đời sáu pháp nguyên khởi.

Sáu pháp tùy thuận nhau.

Đời sáu pháp chấp thủ.

Đời sáu pháp tổn giảm.

Quỷ A-lạp nói kệ hỏi Phật:

 [365a]Ai hay qua các dòng,

Ngày đêm siêng phương tiện?

Không vin, không chỗ trụ,

Ai hay không đắm chìm?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Tất cả giới đầy đủ,

Trí tuệ khéo chánh thọ.

Trong chánh niệm tư duy,

Hay qua dòng khó qua.

Không ưa nơi ngũ dục,

Cũng vượt qua sắc ái;

Không vin, không chỗ trụ,

Ấy không bị đắm chìm.

Quỷ A-lạp nói kệ hỏi Phật:

Dùng pháp gì qua dòng?

Làm sao qua biển lớn?

Làm sao xa lìa khổ?

Làm sao được thanh tịnh?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Dùng tín vượt qua dòng.

Không phóng dật qua biển.

Tinh tấn hay trừ khổ.

Nhờ tuệ được thanh tịnh.

Người nên hỏi điều khác,

Pháp Phạm chí, Sa-môn;

Pháp nào không sai lầm,

Chân đế, thí, điều phục [50].

Quỷ A-lạp lại nói kệ hỏi Phật:

Phiền gì hỏi chuyện khác,

Pháp Phạm chí, Sa-môn;

Tức nói người tối thắng,

Vì hiển đuốc pháp lớn.

Nơi Kiệt-đàm-ma [51] kia,

Thường phải báo ân này;

Bảo tôi: Đẳng Chánh Giác,

Bậc Vô Thượng Ngự Sư.

Tôi đi liền hôm nay,

Thôn nọ đến thôn kia;

Hầu hạ Đẳng Chánh Giác,

Để nghe Ngài nói pháp.

Quỷ A-lạp sau khi nghe những gì Phật nói, hoan hỷ, tùy hỷ làm lễ, rồi ra về.

KINH 1241. THÚC-CA-LA [52]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương xá. Bấy giờ, có Tỳ-kheo-ni Thúc-ca-la [53] ở trong chúng Tỳ-kheo-ni tại vườn vua, được mọi người thành Vương xá cung kính cúng dường như A-la-hán.

Một hôm, nhân ngày cát tinh [54], dân chúng thành Vương xá tụ tập đại hội vui vẻ, nên ngày đó bỏ sót, không cúng dường. Lúc đó có một quỷ thần vì kính trọng Tỳ-kheo-ni ấy nên vào trong đường làng thành Vương xá, đến từng nhà nói kệ:

 [365b]Nhân dân thành Vương xá,

Say sưa, ngủ mê mệt,

Không siêng cúng dường kia,

Tỳ-kheo-ni Thúc-ca.

Nhờ khéo tu các căn,

Tên gọi Thúc-ca-la;

Khéo nói pháp ly cấu,

Nơi Niết-bàn thanh lương.

Thuận nghe những lời ấy,

Suốt ngày vui không chán.

Nương trí tuệ nghe pháp,

Được qua dòng sanh tử.

Như thương nhân đi biển,

Nương vào sức Mã vương [55].

Khi ấy có một vị Ưu-bà-tắc đem y cúng Tỳ-kheo-ni Thúc-ca-la; lại có một vị Ưu-bà-tắc đem thức ăn cúng dường. Lúc ấy, vị quỷ thần kia liền nói kệ:

Ưu-bà-tắc trí tuệ,

Được phước lợi rất nhiều;

Cúng y Thúc-ca-la,

Nên lìa các phiền não.

Ưu-bà-tắc trí tuệ,

Được phước lợi rất nhiều;

Vì cúng ăn Ca-la,

Nên lìa sự tích tụ.

Vị quỷ thần kia sau khi nói kệ xong, liền biến mất.

KINH 1242. TỲ-LA [56]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, thành Vương xá. Bấy giờ, có Tỳ-kheo-ni Tỳ-la [57] ở trong chúng Tỳ-kheo-ni tại vườn vua, thành Vương xá. Nhân ngày cát tinh [58] dân chúng thành Vương xá tụ tập đại hội, nên ngày đó Tỳ-kheo-ni Tỳ-la không có người cúng dường. Lúc đó, có quỷ thần kính trọng Tỳ-kheo-ni Tỳ-la nên đi vào trong các đường làng hay đầu ngã tư đường, thành Vương xá, nói kệ:

Nhân dân thành Vương xá,

Say sưa ngủ mê mệt;

Tỳ-kheo-ni Tỳ-la,

Không người nào cúng dường.

Tỳ-kheo-ni Tỳ-la,

Dõng mãnh tu các căn;

Khéo nói pháp lìa cấu,

Pháp Niết-bàn thanh lương.

Tùy thuận điều được nói,

Suốt ngày vui không chán.

Nương trí tuệ nghe pháp,

Được qua dòng sanh tử.

Khi ấy, có một Ưu-bà-tắc đem y đến cúng Tỳ-kheo-ni Tỳ-la; lại có một Ưu-bà-tắc đem đồ ăn đến cúng dường. Khi ấy, vị quỷ thần kia liền nói kệ:

 [365c]Ưu-bà-tắc trí tuệ,

Nay được phước lợi nhiều;

Vì cúng y Tỳ-la,

Nên đoạn được phiền não.

Ưu-bà-tắc trí tuệ,

Nay được phước lợi nhiều;

Vì cúng ăn Tỳ-la,

Nên lìa các hòa hiệp.

Vị quỷ thần kia sau khi nói kệ xong, liền biến mất.

KINH 1243. HÊ-MA-BA-ĐÊ [59]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, thành Vương xá. Bấy giờ, có Thiên thần Sa-đa-kì-lị [60] và Thiên thần Hê-ma-ba-đê [61] cùng phát lời thề: ‘Nếu trong cung mình có vật báu xuất hiện, thì phải nói với nhau. Nếu không nói, mang tội vi ước.’

Lúc ấy, trong cung Thiên thần Hê-ma-ba-đê có xuất hiện vật báu chưa từng có là hoa ba-đàm-ma [62]. Hoa có nghìn cánh, lớn như bánh xe, cọng báu màu vàng. Lúc ấy Thiên thần Hê-ma-ba-đê sai người đến báo Sa-đa-kì-lị:

“Thưa thôn chủ, hôm nay trong cung chúng tôi bỗng xuất hiện một vật báu chưa từng có là hoa ba-đàm-ma. Hoa có nghìn cánh, lớn như bánh xe, cọng báu màu vàng, mời đến xem qua.”

Thiên thần Sa-đa-kì-lị liền sai người đến nhà Thiên thần Hê-ma-ba-đê nói rằng:

“Thưa thôn chủ, ba-đàm-ma trăm nghìn cánh ấy mà làm gì! Hôm nay trong cung chúng tôi có xuất hiện hoa ba-đàm-ma vĩ đại, của báu chưa từng có, tức là Đức Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Thôn chủ có thể đến phụng sự cúng dường.”

Bấy giờ, Thiên thần Hê-ma-ba-đê liền cùng với năm trăm quyến thuộc đến chỗ Thiên thần Sa-đa-kì-lị nói kệ hỏi:

Ngày rằm là thời tốt,

Ban đêm gặp hội vui;

Nên nói thọ trai gì,

Thọ từ La-hán nào? [63]

Sa-đa-kì-lị nói kệ đáp:

Hôm nay Phật Thế Tôn,

Tại thắng quốc Ma-kiệt,

Trụ tại thành Vương xá,

Vườn Trúc, Ca-lan-đà.

Diễn nói pháp vi diệu,

Diệt trừ khổ chúng sanh.

Khổ khổ và khổ tập,

Khổ diệt tận tác chứng;

Tám Thánh đạo thoát khổ,

An ổn đến Niết-bàn.

Nên đến để cúng dường,

Thế Tôn, La-hán tôi.

 [366a]Hê-ma-ba-đê nói kệ hỏi:

Ngài có tâm nguyện vui,

Cứu giúp chúng sanh không?

Ngài với yêu, không yêu,

Tâm tưởng bình đẳng không? [64]

Sa-đa-kì-lị nói kệ đáp:

Ngài tâm từ, nguyện diệu,

Độ tất cả chúng sanh.

Với những yêu, không yêu,

Tâm tưởng thường bình đẳng.

Hê-ma-ba-đê nói kệ hỏi:

Bậc cụ túc minh đạt,

Thành tựu chánh hành chưa? [65]

Các lậu diệt sạch hẳn,

Không tái sanh nữa ư?

Sa-đa-kì-lị nói kệ đáp:

Minh đạt khéo đầy đủ,

Đã thành tựu chánh hành;

Các lậu đã dứt hẳn,

Không tái sanh đời sau.

Hê-ma-ba-đê nói kệ hỏi:

Mâu-ni ý hành mãn,

Cùng nghiệp thân, miệng chăng?

Minh hạnh đều đầy đủ,

Đúng pháp tán thán chăng?

Sa-đa-kì-lị nói kệ đáp:

Tâm Mâu-ni đầy đủ,

Cùng nghiệp thân, miệng đầy;

Minh hạnh đều đầy đủ,

Đúng pháp mà tán thán.

Hê-ma-ba-đê nói kệ hỏi:

Xa lìa hại sanh mạng,

Không cho không lấy chăng?

Có xa lìa phóng đãng,

Không rời thiền tư chăng?

Sa-đa-kì-lị nói kệ đáp:

Thường không hại chúng sanh,

Không cho, không lấy càn;

Xa lìa nơi phóng đãng,

Ngày đêm thường thiền tư.

Hê-ma-ba-đê nói kệ hỏi:

Không ưa ngũ dục chăng?

Tâm không trược loạn chăng?

Có pháp nhãn thanh tịnh,

Diệt hẳn ngu si chăng?

Sa-đa-kì-lị nói kệ đáp:

Tâm thường không ưa dục,

Tâm cũng không trược động;

 [366b]Pháp nhãn Phật thanh tịnh,

Ngu si hết không còn.

Hê-ma-ba-đê nói kệ hỏi:

Chí thành không vọng ngữ,

Không nói lời thô chăng?

Không nói lời ly gián,

Chỉ nói chân thành chăng?

Sa-đa-kì-lị nói kệ đáp:

Chí thành không vọng ngữ,

Cũng không nói lời thô;

Không ly gián người khác,

Thường nói lời như pháp.

Hê-ma-ba-đê nói kệ hỏi:

Gìn giữ giới thanh tịnh,

Chánh niệm vắng lặng chăng?

Đầy đủ pháp giải thoát,

Như Lai đại trí chăng?

Sa-đa-kì-lị nói kệ đáp:

Tịnh giới đều đầy đủ,

Chánh niệm thường tịch tĩnh;

Thành tựu pháp giải thoát,

Đắc đại trí Như Lai.

Hê-ma-ba-đê nói kệ hỏi:

Minh đạt đều đầy đủ,

Chánh hạnh đã thanh tịnh;

Sở hữu các lậu hết,

Không còn tái sanh nữa?

Sa-đa-kì-lị nói kệ đáp:

Minh đạt đều đầy đủ,

Chánh hạnh đã thanh tịnh;

Tất cả các lậu hết,

Không còn tái sanh nữa.

Hê-ma-ba-đê nói kệ hỏi:

Mâu-ni đủ thiện tâm,

Cùng nghiệp đạo thân, miệng;

Minh hạnh đều đầy đủ,

Nên tán thán pháp này?

Sa-đa-kì-lị nói kệ đáp:

Mâu-ni đủ thiện tâm,

Cùng nghiệp đạo thân, miệng;

Minh hạnh đều đầy đủ,

Nơi pháp này tán thán.

Hê-ma-ba-đê nói kệ hỏi:

Đùi nai Y-ni-diên [66],

Thắng tướng của Tiên nhân;

Ít ăn, xả thân tham,

Chỗ Mâu-ni rừng thiền.

Nay ông hãy cùng đi,

Kính lễ Cù-đàm kia. [67]

 [366c]Lúc ấy, Sa-đa-kì-lị và Hê-ma-ba-đê, có trăm nghìn quyến thuộc quỷ thần vây quanh, vội vàng đi đến chỗ Phật, đảnh lễ cúng dường; sửa lại y phục, trịch vai bên hữu, chắp tay kính lễ và nói kệ:

Đùi nai Y-ni-diên,

Thắng tướng của Tiên nhân;

Ít ăn, không tham đắm,

Mâu-ni ưa rừng thiền.

Hôm nay chúng con đến,

Thỉnh vấn Đức Cù-đàm.

Sư tử đi một mình,

Đại long không sợ hãi.

Nên nay đến thỉnh vấn.

Xin Mâu-ni quyết nghi:

Thế nào ra được khổ?

Làm sao giải thoát khổ?

Xin Ngài nói giải thoát,

Khổ diệt ở chỗ nào?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Năm diệu dục ở đời,

Và thứ sáu là ý [68];

Nơi dục kia không tham,

Giải thoát tất cả khổ.

Ra khỏi khổ như vậy.

Giải thoát khổ như vậy.

Nay đáp điều ông hỏi,

Khổ từ đây mà diệt.

Sa-đa-kì-lị và Hê-ma-ba-đê lại nói kệ hỏi:

Suối từ đâu quay lại,

Đường dữ sao không chuyển? [69]

Mọi khổ lạc thế gian,

Ở đâu mà diệt hết?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân,

Cùng với ý nhập xứ;

Nơi kia danh và sắc,

Vĩnh viễn không còn gì.

Nơi đó suối quay về,

Đó đường ác không chuyển.

Đối với khổ lạc kia,

Diệt hết không còn gì.

Sa-đa-kì-lị và Hê-ma-ba-đê lại nói kệ:

Thế gian mấy pháp khởi,

Mấy pháp đời hòa hợp;

Đời mấy pháp chấp thủ,

Mấy pháp khiến đời diệt?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Sáu pháp khởi thế gian,

Sáu pháp hòa hợp đời;

Sáu pháp chấp thủ đời,

Sáu pháp tổn giảm đời.

 [367a]Sa-đa-kì-lị và Hê-ma-ba-đê lại nói kệ hỏi:

Làm sao qua các dòng,

Ngày đêm siêng phương tiện,

Không vin, không chỗ trụ,

Mà không chìm vực sâu?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Tất cả giới đầy đủ,

Trí tuệ khéo chánh thọ;

Như tư duy buộc niệm,

Thì qua được vực sâu.

Không ưa các dục tưởng,

Cũng vượt sắc trói buộc;

Không vin, không chỗ trụ,

Không chìm nơi vực sâu.

Sa-đa-kì-lị và Hê-ma-ba-đê lại nói kệ hỏi:

Pháp gì qua các dòng?

Làm sao vượt biển lớn?

Làm sao rời khỏi khổ?

Làm sao được thanh tịnh?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Chánh tín, qua các dòng.

Không phóng dật, vượt biển.

Tinh tấn hay dứt khổ,

Trí tuệ được thanh tịnh.

Thế Tôn lại nói kệ tiếp:

Ông có thể hỏi khác,

Pháp Phạm chí Sa-môn;

Chân thật, thí, điều phục,

Ngoài đây không pháp nào? [70]

Hê-ma-ba-đê lại nói kệ:

Cần gì hỏi chỗ khác,

Pháp Phạm chí, Sa-môn?

Hôm nay Đại Tinh Tấn,

Đã khéo léo dẫn khai.

Nay con nên báo đáp,

Ơn Sa-đa-kì-lị,

Hướng dẫn đến Ngự Sư,

Bảo với chúng con rằng:

Con nên đến thôn xóm,

Theo Phật đến mọi nhà;

Thừa sự, lễ, cúng dường,

Theo Phật nghe chánh pháp.

Trăm nghìn quỷ thần này,

Đều chắp tay cung kính;

Tất cả quy y Phật,

Bậc Đại Sư Mâu-ni.

Đáng danh xưng Vô Thượng,

Ắt thấy nghĩa chân thật;

Thành tựu trí tuệ lớn,

Với dục không nhiễm trước.

Người trí nên quan sát,

Cứu giúp kẻ thế gian;

 [367b]Được dấu đạo Hiền thánh,

Đó là Đại Tiên Nhân.

Phật nói kinh này xong. Sa-đa-kì-lị và Hê-ma-ba-đê cùng các quyến thuộc năm trăm quỷ thần nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ lễ Phật, rồi ra về.

KINH 1244. ƯU-BA-GIÀ-TRA [71]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, thành Vương xá. Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất và Tôn giả Mục-kiền-liên đang trú trong núi Kỳ-xà-quật. Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất mới cạo râu tóc, có con quỷ Già-tra và Ưu-ba-già-tra [72] đi ngang qua. Quỷ Ưu-ba-già-tra thấy Tôn giả Xá-lợi-phất mới cạo râu tóc, bèn nói với quỷ Già-tra:

“Bây giờ tôi sẽ đến đánh đầu của Sa-môn kia.”

Quỷ Già-tra nói:

“Ưu-ba-già-tra, anh chớ nói vậy! Sa-môn này có thần lực, đức độ lớn. Anh chớ làm vậy, nếu không sẽ chịu khổ lâu dài, không được lợi ích.” Ba lần nói như vậy, mà quỷ Ưu-ba-già-tra sau ba lần can gián vẫn không nghe lời quỷ Già-tra. Nó liền dùng tay đánh đầu Tôn giả Xá-lợi-phất, đánh xong, rồi tự kêu lên rằng:

“Già-tra, tôi bị thiêu! Già-tra, tôi bị luộc!” Kêu lên ba lần rồi, liền bị vùi vào trong đất, đọa xuống địa ngục A-tỳ.

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nghe tiếng động do con quỷ đánh Tôn giả Xá-lợi-phất, liền đi đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất, hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Thế nào, Tôn giả, có thể chịu được sự đau đớn đó không?”

Tôn giả Xá-lợi-phất trả lời:

“Tôn giả Đại Mục-kiền-liên, tuy có đau đớn, nhưng ý có thể chịu đựng, không đến nỗi đau quá.”

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nói với Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Kỳ diệu thay, Tôn giả Xá-lợi-phất! Thật là thần lực, đức độ lớn. Con quỷ này nếu dùng tay đánh núi Kỳ-xà-quật, sẽ khiến núi nát ra như cám, huống là đánh vào người mà không đau đớn?”

 

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất nói với Tôn giả Đại Mục-kiền-liên:

“Thật ra là tôi không đau đớn lắm!”

Khi Tôn giả Xá-lợi-phất và Đại Mục-kiền-liên cùng uý lạo nhau như vậy, Đức Thế Tôn dùng thiên nhĩ nghe những lời này. Nghe xong, liền nói kệ:

Tâm kia như đá cứng,

Trụ vững không lay động;

Đã lìa tâm nhiễm trước,

Người sân không trả lại.

Nếu tu tâm như vậy,

Sao có nỗi đớn đau!

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.


 [1] Tương ưng Dạ-xoa, gồm các kinh Đại chánh 1319-1324 (phần cuối quyển 49 và phần đầu quyển 50). Ấn Thuân Hội biên, Tung V. Bát chúng; 26. Tương ưng dạ-xoa. Tương đương Pāli S. 10. Yakkhasaṃyutta.

 [2] Đại chánh, kinh 1319. Pāli: S. 10. 4. Maṇibhadda. No 100(318).

 [3] Khuất-ma Dạ-xoa quỷ trú xứ 屈摩夜叉鬼住處. Pāli, S. 10. 4 (i.208): tại trú xứ của Dạ-xoa Maṇibhadda, trong tháp Maṇimālika. No 100(318): trong cung của Dạ-xoa Quật-mặc 崛默夜叉.

 [4] Khuất-ma dạ xoa quỷ 屈摩夜叉鬼 . Pāli ibid.: Maṇibhadda, quỷ bảo hộ những người lữ hành. No 100(318): Quật-mặc dạ-xoa 崛默夜叉.

 [5] Cf. Udāna 1. 7. Pāṭalī; No 100(319). Tham chiếu, Luật Tứ Phần, ba-dật-đề 55. No 100(319).

 [6] Ma-cưu-la sơn 摩鳩羅山. 100(319): Bạch sơn 白山.

 [7] Na-già-ba-la 那伽波羅. No 100(319): 象護. Pāli: Nāgapāla, nhưng không tìm thấy tên này trong các tài liệu Pāli.

 [8] Ma-cưu-la quỷ 摩鳩羅鬼. No 100(319): Bạc-câu-la quỷ 薄俱羅鬼. Pāli: Bakkula, con quỷ có tiếng kêu dễ sợ, Ud 1.7.

 [9] Câu-chấp 俱執; Pāli: kojava, chăn bằng lông dê.

 [10] Tỳ-xá-già 毘舍遮. Pāli: pisāca.

 [11] Pāli, Ud.1.7: atha etaṃ pisācañca pakkulañcativattati, ở đây vị ấy đã vượt qua quỷ Pisāca và tiếng kêu “pakkula”. Quỷ Ajakalāpaka muốn dọa Phật nên phát ra âm thanh dễ sợ “akkulapakkula.”

 [12] Đại chánh, kinh 1321. S.10. 6. Piyaṅkara. No 100(32).

 [13] Tất-lăng-già quỷ tử mẫu 畢陵伽鬼子母. No 100(320): Tân-già-la 賓伽羅. Pāli: Piyaṅkaramātā, mẹ của quỷ con Piyaṅkara.

 [14] Ưu-đà-na 憂陀那; Pāli: Udāna, Vô vấn tự thuyết hay Kệ cảm hứng, các kinh thuộc Tiểu bộ Khuddaka-nikāya.

 [15] Ba-la-diên-na 波羅延那. Pāli: Pārāyana-vagga (phẩm Đáo bỉ ngạn), phẩm thứ 5 trong Suttanipāta, thuộc Tiểu bộ Khuddaka-Nikāya.

 [16] Kiến chân đế 見真諦.

 [17] Thượng tọa sở thuyết kệ 上座所說偈. Pāli: Thera-gāthā, Trưởng lão kệ, sách thứ 8 thuộc Tiểu bộ Khuddaka-nikāya.

 [18] Tỳ-kheo-ni sở thuyết kệ 比丘尼所說偈. Pāli: Theri-gāthā; sách thứ 9, thuộc Khuddaka-nikāya.

 [19] Thi-lộ kệ 尸路偈, kệ śloka (skt.).

 [20] Nghĩa phẩm 義品. Pāli: Atṭṭhaka-vagga, phẩm thứ tư của Suttanipāta.

 [21] Mâu-ni kệ 牟尼偈. Pāli: Muni-gāthā, tức Muni-sutta, trong Suttanipāta 1. 12, các kệ 207-221.

 [22] Pāli: pisāca-yoni, sanh đạo loài quỷ

 [23] Đại chánh, kinh 1322. S. 10. 7. Punabbasu. No 100(321).

 [24] Phú-na-bà-tẩu quỷ tử mẫu 富那婆藪鬼子母. Pāli: Punabbasumātā, mẹ của quỷ con Punabbasa. No 100(321): Phú-na-bà-tu dạ-xoa mẫu富那婆
<lb n="0481a05"/>修夜叉母.

 [25] Uất-đa-la 鬱多羅. Pāli: Uttarā. No 100(321): Ưu-đát-la優怛羅.

 [26] Đại chánh, kinh 1323. Biệt dịch, No 100(322).

 [27] Ma-ni-giá-la quỷ 摩尼遮羅鬼. No 100(322): Ma-ni hành dạ xoa 摩尼行夜叉. Pāli: Mānica-yakkha, Cf. D.iii. 205. Theo các bản Hán: Mānicara.

 [28] Nguyên Hán: Bình đẳng quán 平等觀. Đây chỉ hiện quán 現觀.

 [29] Đại chánh, kinh 1324. S. 1o. 3. No 100(323).

 [30] Châm Mao quỷ 針毛鬼. No 100(323): Tiễn Mao dạ xoa 箭毛夜叉. Pāli: Sūciloma, quỷ có lông như kim.

 [31] Viêm quỷ 炎鬼 . No 100(323): Chích dạ xoa 炙夜叉. Pāli: Kharo yakkho.

 [32] Pāli: te samphasso pāpako ti, “xúc chạm với ngươi là điều tai ác.”

 [33] Xem kinh  Đại chánh 1314.

 [34] Xem kinh  Đại chánh 1314.

 [35] Bản Hán, hết quyển 49.

 [36] Đại Chánh, quyển 50, kinh 1325. Pāli: S. 10. 5. Sānu, No 100 (324).

 [37] Ưu-bà-di tử 優婆夷子. Pāli: aññatarissa upāsikāya sānu nāma putto, con trai của một ưu-bà-di nọ tên là Sānu.

 [38] Bát chi trai 八支齋

 [39] Chỉ mỗi nửa tháng.

 [40] Thần thông nguyệt 神通月. Tháng thần biến 神變月; Pāli: pāṭihāriyapakkha, các tháng Giêng, tháng Năm và tháng Chín, bốn Thiên vương hiện thần thông đi quan sát nhân gian. Xem kinh Đại chánh 1117.

 [41] Hán: mạn hoãn nghiệp 慢綬業. No 100(324): trì hoãn nghiệp 遲緩業. Có lẽ chỉ sự trì giới long lẻo. Xem thí dụ cỏ may hay cầm dao tiếp theo.

 [42] Để bản: gian thảo 菅草. TNM: gian thảo 葌草. No 100(324): “Thọ giới như cầm dao, lỏng hay chặt đều dễ bị thương.”

 [43] Đại chánh, kinh 1326. S. 10. 12. Āḷavaṃ; No 100(325).

 [44] 鬼. No 100(325): Khoáng dã dạ xoa 曠野夜叉. Pāli: 臈 A-lạp quỷ 阿 āḷavako yakkho.

 [45] Kiệt-đàm quỷ 竭曇鬼. No 100(325): Lô Câu 驢駒. Theo Hán dịch, Pāli có thể là Kharo (lừa con). Xem kinh Đại chánh 1324.

 [46] Thắng sĩ phu sự vật 勝士夫事物. No 100(325): “Trong tất cả tài bảo, cái gì tối thắng?” Pāli: kiṃsūdha vittaṃ purissa seṭṭhaṃ, “Trong đời này, tài sản quý nhất của con người là gì?”

 [47] Vân hà thọ trung thắng 云何壽中勝. Pāli: kathaṃ jīvaṃ jīvatamāhu seṭṭhan’ti, “Sanh mạng nào cao thượng nhất trong các sanh mạng?”

 [48] Xem kinh Đại chánh 1282.

 [49] Xem kinh Đại chánh 1329.

 [50] Tức sự thật, bố thí và sự tự chế ngự. Pāli: saccā, dammā, cāgā.

 [51] Kiệt-đàm-ma 竭曇摩, phiên âm khác của Khara, xem cht. trên

 [52] Đại chánh, kinh 1327. S. 10. 9-10. Sukkā; No 100(327).

 [53] Thúc-ca-la 叔迦羅. Pāli: Sukkā bhikkhunī .No 100(327: Bạch Tịnh 白淨.

 [54] Cát tinh nhật 吉星日. No 100(327): Lễ hội sao Câu-mật-đầu 俱蜜頭星會. Pāli: komudī, ngày rằm tháng Kattika, hay Ca-đề, tháng cuối mùa mưa.

 [55] Mã vương 馬王. Pāli: Valāhaka, ngựa thần của Chuyển luân vương.

 [56] Đại chánh, kinh 1328. S.10. 11. Vīrā; No 100(336).

 [57] Tì-la 毘羅. Pāli: Vīrā (bản Miến: Cīrā). No 100(326): Tì-tương毘<gaiji cb='CB0074' des=' [口*梨]' mojikyo='M004225' mofont='Mojikyo M101' mochar='6F3F'>漿</gaiji>( (phụ chú:tiéng nước Tần nói là hùng秦言
<lb n="0483b06"/>雄也).

 [58] Xem kinh Đại chánh 1327 trên

 [59] Đại chánh, kinh 1329. Sn. 1. 9. Hemavata; No 100(328).

 [60] Sa-đa-kỳ-lợi Thiên thần 娑多耆利天神. Pāli: Sātāgira. No 100(328): Thất Nhạc (= Satta-giri).

 [61] Hê-ma-ba-đê Thiên thần 醯魔波低天神. No 100(328): Tuyết Sơn (= Himavati).

 [62] Ba-đàm-ma hoa 波曇摩華. Pāli: Paduma (sen đỏ). No 100(328): hoa sen nghìn cánh 千葉蓮花.

 [63] Ấn Thuận đọc là: tùng hà La-hán thọ, “thọ từ La-hán nào? No 100(328): “Ai là La-hán của ông?”

 [64] Nguêyn Hán: thọ 受, nên sửa lại là ái 愛. No 100(328): ư ái bất ái giác 於愛不愛覺. Pāli: kacci iṭṭhe aniṭṭhe ca, sankappassa vasīkatā? Tâm tư vị ấy có tự tại nơi cái đáng yêu và không đáng yêu không?

 [65] Pāli: kacci vijāya sampanno, kacci saṃsuddhacaraṭo, “Đã thành tựu minh tuệ chưa? Sở hành thanh tịnh chăng?”

 [66] Y-ni-diên lộc 伊尼延鹿. Pāli: eṇi, sơn dương, có đùi (jaṅghā) thon dài, rất đẹp; một tướng của Phật (eṇijaṅghaṃ). Đây chỉ Phật.

 [67] Bài kệ này cũng thay nơi kinh Đại chánh 602 trên.

 [68] Xem kinh Đại chánh 602.

 [69] No 100(328): “Làm sao dòng suối chảy ngược lại? Nơi đâu không chỗ đứng?”

 [70] Xem kinh Đại chánh 1326 trên.

 [71] Đại chánh, kinh 1330. Pāli: Ud. 4. 4. Juṇha (Yakkhapahāra); No 100(329).

 [72] Già-tra, Ưu-ba-già-tra quỷ 伽吒優波伽吒鬼. No 100(329): Hại, Phục Hại 害復害. Pāli: dve yakkhā sahāyakā, hai con quỷ dạ-xoa, bạn của nhau, không nói tên. Theo các bản Hán, Pāli có thể là Ghata, Upaghata, nhưng không thấy trong các tài liệu Pāli.