7. Tương Ưng giới, Kinh 443-464

7. TƯƠNG ƯNG GIỚI [1]

KINH 443. NHÃN DƯỢC HOÀN [2]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Như viên thuốc chữa mắt, rộng sâu một do-tuần. [3] Nếu có người nào lấy viên thuốc này đặt vào trong mỗi mỗi giới [4], [115a] có thể khiến cho hết nhanh chóng [5], nhưng đối với các giới các giới kia cũng không thể cùng biên tế của nó được. Nên biết, số lượng các giới nhiều đến vô lượng. Cho nên, Tỳ-kheo, hãy học giới loại thiện. Đối với chủng loại sai biệt của giới thiện, hãy học như vậy.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 444. BỈ TÂM [6]

Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, cây Kỳ-đà thuộc nước Xá-Vệ , bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh thường tụ hội theo giới, hòa hợp với giới [7]. Thế nào là chúng sanh thường tụ hội theo giới? Chúng sanh có hành tâm bất thiện thì cùng tụ hội với giới bất thiện [8]. Tâm hành thiện thì cùng tụ hội với giới thiện. Thiện tâm đi cùng với thiện giới. Thắng tâm đi cùng thắng giới. Tâm hèn cùng đi với giới hèn. Cho nên, Tỳ-kheo, hãy học như vậy, chủng loại sai biệt của giới thiện.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 445. KỆ [9]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

Nói đầy đủ như trên, chỉ khác là nói thêm bài kệ này:

Thường hợp nên thường sinh,

Lìa nhau, sinh đứt đoạn.

Như người ôm gỗ nhỏ,

Mà vào trong biển lớn;

Người, gỗ đều bị chìm.

Biếng nhác cũng như vậy.

Nên lìa xa biếng nhác,

Siêng năng hạng thấp hèn.

Hiền Thánh không giải đãi;

An trụ nơi viễn ly,

Ân cần tinh tấn thiền,

Vượt qua dòng sanh tử.

Như sơn gặp lụa trắng;

Lửa gặp gió cháy bừng,

Ngọc và sữa cùng sắc;

Chúng sanh cùng theo giới,

Tương tợ thì hòa hợp,

Tăng trưởng cũng như vậy.

KINH 446. HÀNH [10]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương-xá. Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh thường tụ hội theo giới, hòa hợp với giới. Thế nào là chúng sanh thường tụ hội theo giới? Chúng sanh có hành tâm bất thiện thì cùng tụ hội với giới bất thiện. Tâm hành thiện thì cùng tụ hội với giới thiện. Thiện tâm đi cùng với thiện giới.Thắng tâm đi cùng thắng giới.

Bấy giờ, Tôn giả Kiều-trần-như cùng với nhiều Tỳ-kheo đang đi kinh hành gần đó, tất cả đều là những bậc Thượng tọa, đa văn, [115b] đại đức, xuất gia đã lâu, tu tập  đầy đủ phạm hạnh.

Lại có Tôn giả đại Ca-diếp cùng với nhiều Tỳ-kheo cũng đi kinh hành gần đó, tất cả đều ít muốn, biết đủ, đầu-đà, khổ hạnh, không chứa đồ dư.

Tôn giả Xá-lợi-phất cùng với nhiều Tỳ-kheo cũng đi kinh hành gần đó, tất cả đều là những bậc đại trí biện tài.

Tôn giả đại Mục-kiền-liên cùng với nhiều Tỳ-kheo cũng đi kinh hành gần đó, tất cả đều là những bậc có sức thần thông lớn.

Tôn giả A-na-luật-đà cùng với nhiếu Tỳ-kheo cũng đi kinh hành gần đó, tất cả đều được thiên nhãn sáng suốt.

Bấy giờ, cũng có Tôn giả Nhị Thập Ức Nhĩ, cùng với nhiều Tỳ-kheo cũng đi kinh hành gần đó, tất cả đều dõng mãnh, tinh tấn, chuyên cần tu hành.

Lại có Tôn giả Đà-phiêu cùng với nhiều Tỳ-kheo cũng đi kinh hành gần đó, tất cả đều vì đại chúng sửa sang các thứ cúng dường đầy đủ.

Tôn giả Ưu-ba-ly cùng với nhiều Tỳ-kheo cũng đi kinh hành gần đó, tất cả đều thông đạt luật hạnh.

Tôn giả Phú-lâu-na cùng với nhiều Tỳ-kheo cũng đi kinh hành gần đó, tất cả đều là những bậc biện tài, thuyết pháp.

Lại có Tôn giả Ca-chiên-diên cùng với nhiều Tỳ-kheo cũng đi kinh hành gần đó, tất cả đều có khả năng phân biệt các kinh, khéo nói pháp tướng.

Khi đó cũng có Tôn giả A-nan cùng với nhiều Tỳ-kheo đi kinh hành gần đó, tất cả đều là những bậc tổng trì đa văn.

Lại có Tôn giả La-hầu-la cùng với nhiều Tỳ-kheo cũng đi kinh hành gần đó, tất cả đều khéo giữ gìn luật hạnh.

Khi đó cũng có Tôn giả Đề-bà-đạt-đa cùng với nhiều Tỳ-kheo đang đi kinh hành gần đó, tất cả đều huân tập  nhiều ác hạnh.

Đó gọi là Tỳ-kheo thường cùng đi và hòa hợp với giới. Cho nên, Tỳ-kheo, nên khéo phân biệt các giới loại sai biệt.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 447. KỆ [11]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương-xá.

Nói đầy đủ như kinh trên.

Phật liền nói kệ:

Thường hợp nên thường sinh,

Lìa nhau, sinh đứt đoạn.

Như người ôm gỗ nhỏ,

Mà vào trong biển lớn;

Người, gỗ đều bị chìm.

Biếng nhác cũng như vậy.

Nên lìa xa biếng nhác,

Siêng năng hạng thấp hèn.

 [115c]Hiền Thánh không giải đãi;

An trụ nơi viễn ly,

Ân cần tinh tấn thiền,

Vượt qua dòng sanh tử.

Như sơn gặp lụa trắng;

Lửa gặp gió cháy bừng,

Ngọc và sữa cùng sắc;

Chúng sanh cùng theo giới,

Tương tợ thì hòa hợp,

Tăng trưởng cũng như vậy.

KINH 448. GIỚI HÒA HIỆP [12]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh thường tụ hội theo giới, hòa hợp với giới. Nói đầy đủ như trên… cho đến,

“Thắng tâm đi cùng thắng giới. Tâm hèn cùng đi với giới hèn. Khi sát sinh thì đi cùng giới loại sát sinh. Khi tâm trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, uống rượu thì đi cùng giới loại uống rượu. Khi tâm không sát đi cùng giới loại không sát. Khi tâm không trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ; khi tâm không uống rượu thì đi cùng giới loại không uống rượu. Cho nên, Tỳ-kheo, phải khéo phân biệt các giới loại sai biệt.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 449. TINH TẤN [13]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Chúng sanh thường tụ hội theo giới, hòa hợp với giới. Khi bất tín thì đi cùng giới bất tín. Khi phạm giới thì đi cùng giới phạm giới. Khi không không tàm không quý thì đi cùng giới không tàm không quý. Khi có tín thì đi cùng giới có tín. Khi trì giới thì đi cùng giới trì giới. Khi tâm có tàm có quý thi đi cùng giới có tàm có quý. Cho nên, Tỳ-kheo, phải khéo phân biệt các giới loại sai biệt.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

Như tín hay bất tín. Cũng vậy tinh tấn hay không tinh tấn, thất niệm hay không thất niệm, chánh thọ hay không chánh thọ, đa văn hay thiểu văn, xan lẫn hay bố thí, ác tuệ hay thiện tuệ, khó nuôi hay dễ nuôi, khó thỏa mãn hay dễ thỏa mãn, ham muốn nhiều hay ham muốn ít, biết đủ hay không biết đủ, điều phục hay không điều phục, tất cả đều đi cùng giới đó. Như kinh trên đã nói đầy đủ.

KINH 450. GIỚI [14]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Hôm nay Ta sẽ nói về các chủng loại sai biệt của giới [15]. Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà nói.

“Thế nào là các [116a] giới? Nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới; nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới; tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới; thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới; thân giới, xúc giới, thân thức giới; ý giới, pháp giới, ý thức giới. Đó gọi là các thứ giới.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 451. XÚC [16]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Do duyên các chủng loại sai biệt giới sinh các chủng loại sai biệt xúc. Do duyên các chủng loại sai biệt xúc sinh các chủng loại sai biệt thọ, vì duyên các chủng loại sai biệt thọ sinh các chủng loại sai biệt ái.

“Thế nào là các chủng loại sai biệt giới? Mười tám giới: nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới… cho đến ý giới, pháp giới, ý thức giới. Đó gọi là các chủng loại sai biệt của giới.

“Thế nào là do duyên các chủng loại sai biệt giới sinh các chủng loại sai biệt xúc… cho đến, thế nào là do duyên các chủng loại sai biệt của thọ sinh các chủng loại sai biệt của ái? Do duyên nhãn giới sinh nhãn xúc. Do duyên nhãn xúc sinh nhãn thọ. Do duyên nhãn thọ sinh nhãn ái. Cũng vậy, đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, giới làm duyên sinh ý xúc. Do duyên ý xúc sinh ý thọ. Do duyên duyên ý thọ sinh ra ý ái.

“Này các Tỳ-kheo, không phải do duyên các chủng loại sai biệt của ái sinh các chủng loại sai biệt của thọ; không phải do duyên các chủng loại sai biệt của thọ sinh các chủng loại sai biệt của xúc; không phải do duyên các chủng loại sai biệt của xúc sinh các chủng loại sai biệt của giới; mà chính là do duyên các chủng loại sai biệt của giới sinh các chủng loại sai biệt của xúc. Do duyên các chủng loại sai biệt của xúc sinh các chủng loại sai biệt của thọ. Do duyên các chủng loại sai biệt của thọ sinh các chủng loại sai biệt của ái. Này các Tỳ-kheo, đó gọi là do duyên các chủng loại sai biệt của giới sinh các chủng loại sai biệt của xúc. Do duyên các chủng loại sai biệt của xúc sinh các chủng loại sai biệt của thọ. Do duyên các chủng loại sai biệt của thọ sinh các chủng loại sai biệt của ái.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 452. XÚC (2) [17]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Do duyên các chủng loại sai biệt giới sinh các chủng loại sai biệt xúc. Do duyên các chủng loại sai biệt xúc sinh các chủng loại sai biệt thọ. Do duyên các chủng loại sai biệt thọ sinh các chủng loại sai biệt ái.

“Thế nào là các chủng loại sai biệt giới? Mười tám giới: nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới, cho đến, ý giới, pháp giới, ý thức giới. Đó gọi là các chủng loại sai biệt của giới.

“Thế nào là do duyên các chủng loại sai biệt giới sinh các chủng loại sai biệt xúc; do duyên các chủng loại sai biệt xúc sinh các thọ; do duyên các chủng loại sai biệt thọ sinh các chủng loại sai biệt ái? Do duyên nhãn giới sinh nhãn xúc. Không phải do duyên nhãn xúc sinh nhãn giới, mà là duyên nhãn giới sinh nhãn xúc. [116b] Do duyên nhãn xúc sinh nhãn thọ. Không phải duyên nhãn thọ sinh nhãn xúc, mà là duyên nhãn xúc sinh nhãn thọ. Do duyên nhãn thọ sinh nhãn ái. Không phải duyên nhãn ái sinh nhãn thọ, mà là duyên nhãn thọ sinh nhãn ái. Cũng vậy, đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; duyên ý giới sinh ý xúc. Không phải duyên ý xúc sinh ra ý giới, mà là duyên ý giới sinh ý xúc. Do duyên ý xúc sinh ý thọ. Không phải vì duyên ý thọ sinh ý xúc, mà duyên ý xúc sinh ý thọ. Do duyên ý thọ sinh ý ái. Không phải duyên ý ái sinh ý thọ, mà duyên ý thọ sinh ý ái. Cho nên, Tỳ-kheo, không phải vì sinh các chủng loại sai biệt ái sinh các chủng loại sai biệt thọ. Không phải vì duyên các thọ sinh các xúc, cũng không phải vì duyên các xúc sinh các giới, mà chỉ có vì duyên các giới sinh các xúc; do duyên các chủng loại sai biệt xúc sinh các chủng loại sai biệt thọ; do duyên các chủng loại sai biệt thọ sinh các chủng loại sai biệt ái. Này Tỳ-kheo, đó gọi là nên khéo phân biệt các chủng loại sai biệt giới.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 453. TƯỞNG [18]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Do duyên các chủng loại sai biệt giới sinh các chủng loại sai biệt xúc. Do duyên các chủng loại sai biệt xúc sinh các chủng loại sai biệt thọ. Do duyên các chủng loại sai biệt thọ sinh các chủng loại sai biệt tưởng. Do duyên các chủng loại sai biệt tưởng sinh các chủng loại sai biệt dục. [19] Do duyên các chủng loại sai biệt dục sinh các giác tưởng [20]. Do duyên các chủng loại sai biệt giác tưởng sinh các chủng loại sai biệt nhiệ. Do duyên các thứ nhiệt sinh các chủng loại sai biệt cầu. [21]

“Thế nào là các chủng loại sai biệt giới? Mười tám giới: Nhãn giới… cho đến pháp giới.

“Thế nào là vì duyên các chủng loại sai biệt giới sinh các chủng loại sai biệt xúc… cho đến, duyên các thứ nóng bức sinh các mong cầu? Do duyên nhãn giới sinh nhãn xúc; duyên nhãn xúc sinh nhãn thọ; duyên nhãn thọ sinh nhãn tưởng; duyên nhãn tưởng sinh nhãn dục; duyên nhãn dục sinh nhãn giác; duyên nhãn giác sinh nhãn nhiệt; duyên nhãn nhiệt sinh nhãn cầu. Cũng vậy, đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; duyên ý giới sinh ý xúc; duyên ý xúc sinh ý thọ; duyên ý thọ sinh ý tưởng; duyên ý tưởng sinh ý giác; duyên ý giác sinh ý nhiệt; vì duyên ý nhiệt sinh ý cầu. Này Tỳ-kheo, đó gọi là vì duyên các chủng loại sai biệt giới sinh các chủng loại sai biệt xúc… cho đến, duyên các thứ nhiệt sinh các thứ cầu.

“Này Tỳ-kheo! Không phải do duyên các thứ mong cầu sinh các thứ nhiệt. Không phải duyên các nhiệt sinh các thứ giác. Không phải duyên các thứ giác sinh các thứ tưởng. Không phải duyên các thứ tưởng sinh các thứ thọ. Không phải duyên các thứ thọ sinh các thứ xúc. Không phải vì duyên các thứ xúc sinh các thứ giới. Nhưng do duyên các chủng loại sai biệt giới sinh các chủng loại sai biệt xúc… cho đến, duyên các thứ nhiệt sinh các thứ mong cầu.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 454. TƯỞNG (2) [22]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Do duyên các chủng loại sai biệt giới sinh các chủng loại sai biệt xúc; duyên các chủng loại sai biệt xúc sinh các chủng loại sai biệt tưởng; duyên các chủng loại sai biệt tưởng sinh các chủng loại sai biệt dục; duyên các dục sinh các chủng loại sai biệt giác; duyên các chủng loại sai biệt giác sinh các chủng loại sai biệt nhiệt; duyên các nhiệt sinh các chủng loại sai biệt mong cầu.

“Thế nào là các chủng loại sai biệt giới? Mười tám giới, từ nhãn giới, cho đến, pháp giới.

“Thế nào là do duyên các chủng loại sai biệt giới sinh các chủng loại sai biệt xúc,… cho đến; thế nào là duyên các chủng loại sai biệt nhiệt sinh các chủng loại sai biệt mong cầu? Do duyên nhãn giới sinh nhãn xúc. Không phải vì duyên nhãn xúc sinh nhãn giới, mà do duyên nhãn giới sinh nhãn xúc. [23] Duyên nhãn xúc sinh nhãn tưởng. Không phải do duyên nhãn tưởng sinh nhãn xúc, mà do duyên nhãn xúc sinh nhãn tưởng. Duyên nhãn tưởng sinh ra nhãn dục. Không phải do duyên nhãn dục sinh nhãn tưởng, mà do duyên nhãn tưởng sinh nhãn dục. Duyên nhãn dục sinh ra nhãn giác. Không phải do duyên nhãn giác sinh nhãn dục, mà do duyên nhãn dục sinh nhãn giác. Duyên nhãn giác sinh ra nhãn nhiệt. Không phải do duyên nhãn nhiệt sinh nhãn giác, mà do duyên nhãn giác sinh nhãn nhiệt. Duyên nhãn nhiệt sinh ra nhãn cầu. Không phải do duyên nhãn cầu sinh nhiệt, mà do duyên nhãn nhiệt sinh ra nhãn cầu. 

“Cũng vậy, đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý, do duyên ý giới sinh ý xúc… cho đến duyên ý nhiệt sinh ý cầu cũng nói đầy đủ như vậy.

“Này Tỳ-kheo, đó gọi là duyên các chủng loại sai biệt giới sinh các chủng loại sai biệt xúc… cho đến do duyên các nhiệt sinh các thứ mong cầu. Không phải do duyên các thứ mong cầu sinh các nhiệt, [chẳng phải duyên các thứ nhiệt sanh các thứ giác, chẳng phải duyên các thứ giác [116c] sinh các thứ tưởng, chẳng phải duyên các thứ tưởng sanh các thứ thọ, chẳng phải duyên các thứ thọ sanh ra các thứ xúc]… cho đến không phải duyên các xúc sinh các giới, mà do duyên các giới sinh các thứ xúc,… cho đến, duyên các nhiệt sinh các thứ mong cầu.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành. [24]

Giống như sáu nội xứ, sáu ngoại xứ cũng nói như vậy.

KINH 455. CHÁNH THỌ [25]

Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, cây Kỳ-đà thuộc nước Xá-Vệ, bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có quang giới, tịnh giới, không vô biên xứ giới, thức vô biên xứ giới, vô sở hữu xứ giới, phi tưởng phi phi tưởng xứ giới, tưởng thọ diệt giới. [26]”

Khi ấy có Tỳ-kheo từ chỗ ngồi đứng dậy, sữa lại y phục, cúi đầu lễ sát chân Phật, rồi chắp tay, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, có quang giới, tịnh giới, không vô biên giới, thức vô biên xứ giới, vô sở hữu xứ giới, phi tưởng phi phi tưởng xứ giới, tưởng thọ diệt giới. Các giới này như vậy do nhân duyên gì để có thể biết?”.

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Quang giới kia do duyên tối tăm mà được biết. Tịnh giới do duyên bất tịnh nên biết. Không vô biên xứ giới do duyên sắc mà biết. Thức vô biên xứ giới do hư không [27] mà được biết. Vô sở hữu xứ giới do duyên sở hữu [28] mà được biết. Phi tưởng phi phi tưởng xứ giới do duyên chánh thọ hữu đệ nhất [29] mà được biết. Tưởng thọ diệt giới do duyên hữu thân [30] mà được biết.”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, từ quang giới cho đến tưởng thọ diệt giới này bằng vào chánh thọ [31] gì mà đạt được?”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Quang giới, tịnh giới, không vô biên xứ giới, thức vô biên xứ giới, vô sở hữu xứ giới; các cõi này ngay nơi chánh thọ đang tự hành mà đạt được. [32] Phi tưởng phi phi tưởng xứ giới ở nơi chánh thọ của đệ nhất hữu [33] mà đạt được. Diệt giới do chánh thọ của diệt hữu thân [34] mà [117a] đạt được.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 456. THUYẾT [35]

Tôi nhge như vầy:

Một thời Phật ở tại giảng đường Lộc mẫu, Đông viên, nước Xá-vệ. Bấy giờ vào buổi chiều, đức Thế Tôn sau khi từ thiền tịnh tỉnh giác, đến trong bóng mát giảng đường, trải tòa, ngồi trước đại chúng, nói những câu kệ ưu-đàn-na, rồi bảo các Tỳ-kheo:

“Do duyên giới mà sinh thuyết, chứ không phải không do giới. Duyên giới mà sinh kiến, không phải không do giới, Duyên giới mà sinh tưởng, không phải không do giới. Duyên giới hạ liệt, [36] Ta nói, sinh thuyết hạ liệt, [37] kiến hạ liệt, tưởng hạ liệt, [38] tư hạ liệt, [39] dục hạ liệt, [40] nguyện hạ liệt, [41] hạ sĩ phu hạ liệt. [42] Nó có sở tác hạ liệt, thi thiết hạ liệt, kiến lập hạ liệt, bộ phận hạ liệt, hiển thị hạ liệt; thì sự thọ sinh của nó cũng hạ liệt. [43]

“Trung giới cũng như vậy.

“Cũng vậy, đối với giới thù thằng. [44] Do duyên thắng giới, Ta nói kia sinh thuyết thù thằng, kiến thù thằng, tưởng thù thằng, tư thù thằng, nguyện thù thằng, sĩ phu thù thằng. Nếu nó có sở tác thù thằng, thi thiết thù thằng, kiến lập thù thằng, bộ phận thù thằng, hiển thị thù thằng, thì sự thọ sinh của nó cũng thù thằng.”

Bấy giờ có Tỳ-kheo Bà-ca-li [45] đang đứng sau, cầm quạt hầu Phật, bạch rằng:

“Bạch Thế Tôn, đối với Chánh đẳng Chánh giác mà thấy đó không phải Chánh đẳng Chánh giác, sự thấy này cũng duyên theo giới mà sinh chăng?” [46]

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Đối với Chánh đẳng Chánh giác mà thấy không phải Chánh đẳng Chánh giác, sự thấy cũng duyên theo giới mà sinh ra, không phải không duyên giới. Vì sao? Giới của phàm phu là vô minh giới. Như trước Ta đã nói, duyên hạ giới sinh hạ thuyết, hạ kiến,… cho đến, hạ thọ sinh. Duyên trung giới cũng như vậy, đối với thắng giới, cũng sinh thắng thuyết, thắng kiến, cho đến, thắng thọ sinh.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành .

KINH 457. NHÂN [47]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Có nhân sinh ra dục tưởng, chứ không phải không có nhân; có nhân sinh ra nhuế tưởng, hại tưởng [48], chứ không phải không có nhân.

“Do nhân gì sinh dục tưởng? Do duyên dục giới. Duyên dục giới sinh dục tưởng, dục dục, dục giác, [117b] dục nhiệt, dục cầu [49]. Kẻ phàm ngu si khi đã khởi lên dục cầu rồi, chúng sinh này khởi lên tà vạy qua ba nơi là thân, miệng, tâm. Do nhân duyên tà vạy như vậy nên hiện tại sống trong khổ não; có khổ, có khốn quẫn, có thất vọng [50], có nóng bức; sau khi chết rồi sinh vào trong đường ác. Đó gọi là nhân duyên sinh dục tưởng. 

“Thế nào là nhân duyên sinh ra nhuế tưởng, hại tưởng? Đó là hại giới. Do duyên hại giới nên sinh hại tưởng, hại dục, hại giác, hại nhiệt, hại cầu. Kẻ phàm ngu si khi đã khởi lên sự mong muốn làm hại, chúng sinh này khởi lên tà vạy qua ba nơi là thân, miệng, tâm. Do nhân duyên tà vạy như vậy nên hiện tại sống trong khổ não; có khổ, có khốn quẫn, có thất vọng, có nóng bức; sau khi chết rồi sinh vào trong đường ác.

“Này các Tỳ-kheo, nếu Sa-môn, Bà la môn nào đang an trú nơi sanh như vậy mà sinh tưởng nguy hiểm [51], không tìm cách loại bỏ, không tỉnh giác [52], không nhả ra, hiện tại người ấy ngay trong đời hiện tại an trú khổ; có khổ, có khốn quẫn, có thất vọng, có nóng bức; sau khi chết rồi sinh vào trong đường ác.

“Ví như cách thành ấp, làng xóm không xa, có cánh đồng hoang, chợt bốc lửa lớn. Nếu không ai có sức mạnh để dập tắt lửa, nên biết, những chúng sinh ở trong đồng hoang đó chắc chắn sẽ bị lửa hại. Cũng vậy, Sa-môn, Bà-la-môn đang an trú nơi sanh mà sinh tưởng nguy hiểm, sau khi thân hoại mạn chung sinh vào đường ác.

“Này các Tỳ-kheo, có nhân sinh tưởng xuất yếu [53], chứ không phải không có nhân.

“Thế nào là nhân sinh tưởng xuất yếu? Đó là xuất yếu giới. [54] Do duyên xuất yếu giới sinh xuất yếu tưởng, xuất yếu dục, xuất yếu giác, xuất yếu nhiệt, xuất yếu cầu. Nghĩa là người có trí kia khi tìm cầu sự xuất yếu, chúng sanh này [55] phát sanh chánh hành qua ba chỗ là thân, miệng, tâm. Kia sau khi do nhân duyên sanh chánh hành như vậy, ngay hiện tại sống an lạc, không khổ, không khốn quẫn, không thất vọng, không nóng bức; sau khi chết sinh vào cõi lành. Đó gọi là nhân duyên sinh tưởng xuất yếu.

“Thế nào là nhân duyên sinh tưởng không nhuế, không hại [56]? Đó là bất nhuế, bất hại giới. Do nhân duyên bất hại giới sinh bất hại tưởng bất hại dục, bất hại giác, bất hại nhiệt, bất hại cầu không hại. Nghĩa là người có trí kia khi tìm cầu sự bất hại, chúng sanh này phát sanh chánh hành qua ba chỗ là thân, miệng, tâm. Người ấy do nhân duyên sanh chánh hành như vậy ngay hiện tại sống an lạc, không khổ, không khốn quẫn, không thất vọng, không nóng bức; sau khi chết sinh vào cõi lành. Đó gọi là nhân duyên sinh tưởng bất hại.

“Nếu các Sa-môn, Bà-la-môn an trụ nơi sanh mà sinh tưởng bất hại, không lìa bỏ, [57] không loại bỏ [58], không nhả ra, ngay hiện tại sống lạc, không khổ, không khốn quẫn, không thất vọng, không nóng bức; sau khi chết sinh vào cõi lành.

“Ví như ven thành ấp, làng xóm, có cánh đồng hoang chợt bốc lửa lớn. Có người có khả năng dùng tay, chân để dập tắt lửa. Nên biết, các chúng sanh sống nương cây cỏ đều không bị hại. Cũng vậy, Sa-môn, Bà-la-môn an trụ nơi sanh mà sinh tưởng bất hại, không lìa bỏ, không loại bỏ, không nhả ra, ngay hiện tại sống lạc, không khổ, không khốn quẫn, không thất vọng, không nóng bức; sau khi chết sinh vào cõi lành.”

Phật nói [117c] kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 358. TỰ TÁC [59]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Bà-la-môn đến chỗ Phật. Sau khi cùng Thế Tôi thăm hỏi, ông đứng sang một bên, bạch Phật:

“Chúng sanh không phải tự mình làm, không phải cái khác làm.”

Phật bảo Bà-la-môn:

“Với luận thuyết như vậy, Ta và Ông không gặp nhau. Ông nay tự mình đi đến đây mà lại nói không tự mình làm, không phải cái khác làm.”

Bà-la-môn bạch:

“Thế nào, bạch Cù-đàm, chúng sanh là tự mình làm hay cái khác làm?”

Phật bảo Bà-la-môn:

“Bây giờ Ta hỏi Ông, tùy ý mà trả lời Ta. Này Bà-la-môn, ý Ông nghĩ sao, có phương tiện giới [60] của chúng sanh nhờ đó các chúng sinh biết tạo ra phương tiện chăng?”

Bà-la-môn bạch:

“Bạch Cù-đàm, có phương tiện giới của chúng sanh đó, khiến cho các chúng sinh biết tạo ra phương tiện.”

Phật bảo Bà-la-môn:

“Nếu có phương tiện giới nhờ đó mà các chúng sanh biết có phương tiện, đó là chúng sinh tự mình làm hay là cái khác làm?” [61]

“Này Bà-la-môn, ý Ông nghĩ sao, có an trú giới, kiên cố giới, xuất giới, tạo tác giới [62] của chúng sinh, nhờ đó mà chúng sinh biết là có tạo tác chăng?”

Bà-la-môn bạch Phật:

“Có an trú giới, kiên cố giới, xuất giới, tạo tác giới của chúng sinh, nhờ đó mà chúng sinh biết là có tạo tác.”

Phật bảo Bà-la-môn:

“Nếu có an trú giới, kiên cố giới, xuất giới, tạo tác giới của chúng sinh, nhờ đó mà chúng sinh biết là có tạo tác, đó là chúng tự mình làm hay là cái khác làm?”

Bà-la-môn bạch:

“Chúng sinh có việc tự mình làm, có việc người khác làm. Bạch Cù-đàm, vì ở đời có nhiều công việc, bây giờ tôi xin phép được cáo từ.”

Phật bảo Bà-la-môn:

“Ở đời có nhiều công việc, Ông nên biết đúng thời.”

Sau khi nghe lời Phật dạy, Bà-la-môn hoan hỷ, tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.

KINH 459. CÙ-SƯ-LA [63]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-diệm-di [64]. Bấy giờ gia chủ Cù-sư-la [65] đi đến chỗ Tôn giả A-nan, đảnh lễ sát chân Tôn giả A-nan, rồi lui ngồi qua một bên, bạch Tôn giả A-nan:

“Nói là nhiều chủng loại giới [66]. Vậy thế nào là nhiều chủng loại giới giới?”

Tôn giả A-nan bảo gia chủ Cù-sư-la:

“Nhãn giới khác, sắc giới khác thuộc về hỷ xứ. [67] Hai nhân duyên sinh thức. Ba sự hòa hợp sanh xúc. Do nhân duyên hỷ xúc sinh lạc thọ. Cũng vậy, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý pháp cũng nói như vậy.

“Lại nữa, này Gia chủ, có nhãn giới khác, [118a] sắc giới khác thuộc về ưu xứ. [68] Hai nhân duyên sinh thức. Ba sự hòa hợp sanh khổ xúc. Do nhân duyên khổ sanh khổ thọ. Cũng vậy, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý pháp cũng nói như vậy.

“Lại nữa này Gia chủ, nhãn giới khác, sắc giới khác thuộc về xả xứ. Hai nhân duyên sanh thức. Ba sự hòa hợp sanh xúc, không khổ, không lạc. Do nhân duyên xúc không khổ, không lạc sanh thọ, không khổ, không lạc. Cũng vậy, nhĩ, tỷ, thiệt,thân, ý pháp cũng nói như vậy .”

Gia chủ Cù-sử-la sau khi nghe lời dạy của Tôn giả A-nan tùy hỷ, vui mừng làm lễ mà lui.

KINH 460. TAM GIỚI [69]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu diệm di [70]. Bấy giờ gia chủ Cù-sư-la đi đến chỗ Tôn giả A-nan, đảnh lễ sát chân Tôn giả A-nan, rồi lui ngồi qua một bên, bạch Tôn giả A-nan:

 “Nói là nhiều chủng loại giới. Vậy thế nào là nhiều chủng loại giới?”

Tôn giả A-nan bảo gia chủ Cù-sư-la:

“Có ba giới. Những gì là ba? Đó là dục giới, sắc giới và vô sắc giới.”

Bấy giờ, Tôn giả A-nan nói bài kệ:

Hiểu rõ về Dục giới,

Sắc giới cũng như vậy.

Bỏ tất cả hữu dư,

Được tịch diệt vô dư.

Nơi thân hòa hợp giới [71],

Đoạn tuyệt, chứng vô dư.

Đấng Chánh giác đã chỉ,

Nẻo vô ưu, ly cấu [72].

Tôn giả A-nan nói kinh này xong, gia chủ Cù sư la tùy hỷ, vui mừng làm lễ mà lui.

KINH 461. TAM GIỚI [73]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu diệm di [74]. Bấy giờ gia chủ Cù-sư-la đi đến chỗ Tôn giả A-nan, đảnh lễ sát chân Tôn giả A-nan, rồi lui ngồi qua một bên, bạch Tôn giả A-nan:

 “Nói là nhiều chủng loại giới. Vậy thế nào là nhiều chủng loại giới?”

Tôn giả A-nan bảo gia chủ Cù-sư-la:

“Có ba giới. Những gì là ba? Đó là Sắc giới, Vô sắc giới, Diệt giới. [75]”

Bấy giờ, Tôn giả A-nan nói bài kệ:

Nếu chúng sanh Sắc giới,

Và trụ Vô sắc giới,

Mà không biết Diệt giới,

Thì lại thọ các hữu.

Nếu đoạn được sắc giới,

Không trụ vô sắc giới,

Diệt giới, tâm giải thoát,

Thì xa lìa sanh tử.

Khi Tôn giả A-nan nói kinh này xong, gia chủ Cù sư la tùy hỷ, vui mừng [118b] làm lễ mà lui.

KINH 462. TAM GIỚI (3) [76]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu diệm di. Bấy giờ gia chủ Cù-sư-la đi đến chỗ Tôn giả A-nan, đảnh lễ sát chân Tôn giả A-nan, rồi lui ngồi qua một bên, bạch Tôn giả A-nan:

 “Nói là nhiều chủng loại giới. Vậy thế nào là nhiều chủng loại giới?”

Tôn giả A-nan bảo gia chủ Cù-sư-la:

 “Có ba giới xuất ly, đó là xuất ly từ dục giới cho đến sắc giới, và xuất ly từ sắc giới cho đến vô sắc giới. Ở đây, tất cả các hành, tất cả những tư tưởng về giới đều dứt hết. Đó gọi là ba thứ giới cần xuất ly.“

Rồi Tôn giả nói bài kệ:

Biết xuất ly Dục giới,

Vượt luôn khỏi Sắc giới,

Tất cả hành tịch diệt,

Siêng tu, chánh phương tiện.

Đoạn trừ tất cả ái,

Tất cả hành diệt tận.

Biết tất cả hữu dư,

Không xoay chuyển lại hữu.

Khi Tôn giả A-nan nói kinh này xong, gia chủ Cù-sư-la tùy hỷ vui mừng làm lễ mà lui.

KINH 463. ĐỒNG PHÁP [77]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu diệm di. Bấy giờ Tôn giả A-nan đi đến chỗ vị Thượng tọa tên là Thượng Tọa [78]. Khi đến nơi ấy Tôn giả cung kính thăm hỏi, rồi ngồi lui qua một bên, bạch vị Thượng tọa tên là Thượng Tọa:

“Nếu có Tỳ-kheo ở nơi vắng vẻ, dưới bóng cây, hay ở trong tăng xá yên tĩnh tư duy, nên bằng pháp gì để chuyên tinh tư duy?”

Thượng tọa đáp:

“Này Tôn giả A-nan, nếu người nào ở chỗ vắng vẻ, dưới bóng cây hay trong tăng xá yên tĩnh, nên bằng hai pháp này để chuyên tinh tư duy, đó là chỉ và quán [79].

Tôn giả A-nan lại hỏi Thượng tọa:

“Tu tập chỉ, sau khi tu tập nhiều, sẽ thành tựu được pháp gì? Tu tập quán, sau khi tu tập nhiều, sẽ thành tựu được pháp gì?”

Thượng tọa trả lời Tôn giả A-nan:

“Tu tập chỉ, cuối cùng thành tựu được quán. Tu tập quán, cũng thành tựu được chỉ. Nghĩa là Thánh đệ tử tu tập gồm cả chỉ và quán, chứng đắc các giải thoát giới.”

Tôn giả A-nan lại hỏi:

“Bạch Thượng tọa, thế nào là các giải thoát giới?”

Thượng tọa đáp:

“Này Tôn giả A-nan, đoạn giới, vô dục giới, diệt giới, đó gọi là các giải thoát giới.”

Tôn giả A-nan lại hỏi Thượng tọa:

“Thế nào là đoạn giới cho đến diệt giới?”

Thượng tọa đáp:

“Này Tôn giả A-nan, đoạn tất cả hành, đó gọi là đoạn giới. Đoạn trừ ái [118c] dục, đó là vô dục giới. Tất cả hành diệt, gọi là diệt giới.”

Tôn giả A-nan sau khi nghe Thượng tọa nói xong, tùy hỷ hoan hỷ rồi đi thẳng đến chỗ năm trăm Tỳ-kheo. Sau khi cung kính hỏi thăm,Tôn giả ngồi lui qua một bên, bạch với năm trăm vị Tỳ-kheo:

“Nếu Tỳ-kheo nào trong lúc ở chỗ vắng vẻ, dưới bóng cây hay trong tăng xá yên tĩnh tư duy, nên bằng pháp gì để chuyên tinh tư duy?”

Bấy giờ năm trăm Tỳ-kheo trả lời Tôn giả A-nan:

“Nên bằng hai pháp chuyên tinh mà tư duy.” Chi tiết, cho đến, “diệt giới,” như vị Thượng tọa đã nói trên kia.

Tôn giả A-nan sau nghe năm trăm vị Tỳ-kheo nói như vậy, hoan hỷ tùy hỷ, liền đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, nếu Tỳ-kheo ở chỗ vắng vẻ, dưới bóng cây hay trong tăng xá yên tĩnh mà tư duy, nên bằng phương pháp gì để chuyên tinh tư duy?”

Phật bảo A-nan:

“Nếu Tỳ-kheo nào ở nơi vắng vẻ, dưới bóng cây, hay trong tăng xá yên tĩnh mà tư duy, nên bằng hai pháp để chuyên tinh tư duy.” Chi tiết, cho đến, “diệt giới,” như năm trăm Tỳ-kheo đã nói.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan bạch Phật:

“Kỳ diệụ thay, bạch Thế Tôn! Bậc Đạo sư và các đệ tử tất cả đều đồng một pháp, đồng văn cú, đồng một nghĩa, đồng một vị. Hôm nay con đến Thượng tọa có tên là Thượng Tọa hỏi nghĩa này, Tôn giả ấy cũng đem nghĩa này, văn cú này, vị này giải đáp cho con, như những gì Thế Tôn đã nói hiện tại. Con lại đến chỗ năm trăm Tỳ-kheo cũng đem nghĩa này, văn cú này, vị này hỏi năm trăm Tỳ-kheo, họ cũng đem nghĩa này, câu này, vị này mà đáp, như những gì Thế Tôn đã nói hiện tại. Cho nên biết rằng, Thầy và đệ tử, tất cả đều đồng một pháp, đồng văn cú, đồng một nghĩa, đồng một vị.”

Phật bảo Tôn giả A-nan:

“Ngươi có biết vị Thượng tọa này là Tỳ-kheo như thế nào không?”

A-nan bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con không biết.”

Phật bảo Tôn giả A-nan:

“Thượng tọa này là A la hán, các lậu đã dũ sạch, đã vứt bỏ gánh nặng, đạt được chánh trí, tâm khéo giải thoát. Năm trăm vị Tỳ-kheo kia cũng đều như vậy.”

Phật nói kinh này xong, Tôn giả A-nan sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 464. TRƯỚC SỬ [80]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương-xá. Bấy giờ Tôn giả La-hầu-la đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, biết cái gì, thấy cái gì, để ở trong thân có thức này của con và trong tất cả những tướng của cảnh giới bên ngoài mà không có kết sử ngã, ngã sở, ngã mạn [81]?”

Phật bảo La-hầu-la:

“Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì ngươi mà nói.

“ Tỳ-kheo đối với những gì thuộc địa giới, hoặc quá [119a] khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc trong, hoặc ngoài, hoặc thô, hoặc tế, hoặc đẹp, hoặc xấu, hoặc xa, hoặc gần, mà biết như thật, tất cả những thứ đó đều không phải ngã, không khác ngã, không ở trong nhau. Đối với thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới, lại cũng như vậy.

“Này La-hầu-la, Tỳ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, ở trong thân có thức này của chính mình, và trong tất cả những tướng thuộc cảnh giới bên ngoài, không có kết sử ngã, ngã sở, ngã mạn.

“Này La-hầu-la, Tỳ-kheo ở trong thân có thức này, và trong tất cả những tướng của cảnh giới bên ngoài mà không có kết sử ngã, ngã sở, ngã mạn, đó gọi là dứt sự ràng buộc của ái, dứt các kiết sử, đoạn trừ ái, dừng kiêu mạn, đắc hiện quán, đoạn tận khổ biên.”

Phật nói kinh này xong, Tôn giả La-hầu-la nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

 


 [1] Ấn Thuận Hội biên, Tụng iii. Tạp nhân, 5. Tương ưng giới, từ kinh 444 - 465 trong nửa sau quyển 16. Tương đương Pāli, S. 14. Dhātu-saṃyutta (Nidānavaggo).

 [2] Đại chánh 444. Viên thuốc chữa mắt. Không thấy Pāli tương đương.

 [3] Ý nói, số lượng viên thuốc được tập họp lại.

 [4] Chỉ cách tính số lượng: mỗi giới loại (chủng loại) đặt một viên.

 [5] Số viên thuốc hết nhanh, nhưng số giới chưa hết.

 [6] Tâm hèn mọn. Đại chánh kinh 445. Pāli, S. 14. 14. Hīnādhimutti (Ý chí hèn kém).

 [7] Pāli (S.ii. 153): dhātusova bhikkhave sattā saṃsandanti samenti, chúng sanh giao tiếp theo giới, tập hợp theo giới. Ở đây, giới hay giới loại được hiểu là tánh chất (giới loại).

 [8] Pāli: hīnādhimuttikā hīnādhimuttikehi saddhiṃ..., bản tánh thấp hèn thì đi với bản tánh thấp hèn.

 [9] Đại chánh kinh 446. Pāli, S. 14. 16. Sagathā.

 [10] Đại chánh kinh 447. S. 14. 15. Kammaṃ

 [11] Đại chánh kinh 448.

 [12] Đại chánh kinh 449. S. 14. 12. Sanidānaṃ.

 [13] Đại chánh kinh 450.

 [14] Đại chánh kinh 451. S. 14. 1. Dhātu.

 [15] Chủng chủng giới 種種界. Pāli: dhātunānattaṃ, tính đa dạng của giới (loại).

 [16] Đại chánh kinh 452. S. 14. 2-5. Samphassa, v.v.

 [17] Đại chánh kinh 453.

 [18] Đại chánh kinh 454. S. 14. 7. Saññā.

 [19] Pāli: chandanānattaṃ.

 [20] Giác 覺. Pāli (S. ii. 143): saṅkappa (tư duy): saññānānattaṃ paṭicca  uppajjati saṅkappannattaṃ; saṅkappānattaṃ paṭicca uppajjati chandanānattaṃ; chandanānattaṃ paṭicca uppajjati pariḷhānānattaṃ; duyên tưởng sai biệt sanh tư duy sai biệt; duyên tư duy sai biẹt sanh dục sai biệt; duyên dục sai biệt sanh nhiệt não sai biệt.

 [21] Chủng chủng cầu種種求. Pāli: pariyesanānānattaṃ.

 [22] Đại chánh kinh 455. Nội dung gần với kinh trên. Bản Đại chánh, quyển 16 khuyết kinh 455. Kinh này được chép thành phụ bản cuối quyển quyển 17. Nay đưa trở lại theo thứ tự của nó.

 [23] Trong bản, trên chỗ duyên có chữ phi. Đây lược bỏ.

 [24] Bản Hán, hết quyển 16.

 [25] Đại chánh quyển 17. Phụ đề đầu quyển: “Phần thứ 5  của Tụng iii. Tạp nhân.” Kinh 456. Pāli, S. 14. 11. Sattimā

 [26] Quang giới 光界, tịnh giới 淨界, vô lượng không nhập xứ giới 無量空入處界, vô lượng thức nhập xứ giới 無量識入處界, vô sở hữu nhập xứ giới 無所有入處界, phi tưởng phi phi tưởng nhập xứ giới 非想非非想入處界, hữu diệt giới 有滅界. Pāli: sattimā dhātuyo - ābhādhātu, subhadhātu, ākāsānañcāyatanadhātu, viññāṇañcāya-tanadhātu, ākiñcaññāyatanadhātu, nevasaññānāsaññāyatanadhātu, saññāvedayita-nirodhadhātu, có bảy giới loại (ở đây: giới hệ hay cõi): giới loại ánh sáng, giới loại tịnh khiết, giới loại cảnh vực hư không vô biên, cảnh vực thức vô biên, cảnh vực vô sở hữu, cảnh vực phi tưởng phi phi tưởng, cõi của sự diệt tận tưởng và thọ.

 [27] Trong nguyên bản: duyên nội 緣內. Bản đời Nguyên: duyên nội không 緣內空. Ấn Thuận đề nghị sửa lại là (hư) không. Pāli: ākāsānañcāyatanaṃ paṭicca, duyên hư không vô biên.

 [28] Pāli: viññāṇañcāyatanaṃ paṭicca, duyên thức vô biên xứ.

 [29] Hữu đệ nhất hữu chánh thọ 第一有正受. Pāli ibid.: ākiñcaññāyatanaṃ paṭicca, duyên vô sở hữu xứ.

 [30] Hữu thân 有身( Pāli: sakkāya). Pāli ibid: nirodhaṃ pṭicca, duyên diệt.

 [31] Chánh thọ 正受, hoặc đẳng chí: định lực. Pāli: samāpatti.

 [32] Pāli ibid: saññāsamāpatti pattabbā, y tưởng chánh thọ (đẳng chí) mà đạt được.

 [33] Pāli: saṃkhārāvasesasamāpatti pattabbā, đạt được do chánh thọ của hành hữu dư (một ít hành uẩn vi tế còn tàn dư).

 [34] Hữu thân diệt 有身滅, diệt tận các thân kiến (20 hữu thân kiến, hay tát-ca-da-tà kiến). Pāli: nirodhasamāpatti, do diệt chánh thọ. Sớ: do tư trạch không hiện hành của uẩn thứ tư (catunnaṃ khandhānaṃ paṭisaṅkha-appavattiṃ), nói là y diệt chánh thọ.

 [35] Đại chánh kinh 457. Pāli, S. 14. 13. Giñjakāvasatha.

 [36] Trong nguyên bản chép nhầm là bất giối 不界.

 [37] Pāli: hīnā vācā, ngôn ngữ thấp kém, hạ đẳng.

 [38] Pāli: hīno vitakko, tầm hạ liệt.

 [39] Pāli: hīnā cetanā, tư niệm hay ý chí thấp kém.

 [40] Pāli: hīnā patthanā, dục cầu hạ liệt.

 [41] Pāli: hīno paṇidhi, ước nguyện thấp kém.

 [42] Pāli: hīno puggalo, con người hay nhân cách thấp kém.

 [43] Pāli: hīnaṃ ācikkhati deseti (…) hīnā tassa upapattī’ ti vadāmi, “Nó nói (điều) hạ liệt, thuyết (điều) hạ liệt…, Ta nói, sự tái sanh của nó cũng hạ liệt.

 [44] Pāli: paṇītā dhātu, giới vi diệu, thượng đẳng.

 [45] Bà-ca-lị 婆迦利. Có lẽ Pāli: Vakkali. Nhưng, Pāli ibid: Kaccāna.

 [46] Pāli ibid.: asammāsabuddhesu sammāsambuddhā’ ti, ayaṃ nu kho, bhante, diṭṭhi kiṃ paṭicca paññāyatī”ti? “Đây là vị Chánh giác ở giữa những vị phi chánh giác: Kiến này duyên gì mà biết?” Sớ giải: Những vị phi chánh giác, tức Lục sư Ngoại đạo. Vị Chánh giác, tức là đức Phật của cúng ta.”

 [47] Đại chánh, kinh 458. Pāli, s. 14. 12. Sanidāna (có nguyên do). Tham chiếu, A. 6. 39. Nidāna.

 [48] Dục tưởng, nhuế tưởng, hại tưởng; ba bất thiện tưởng, cũng là ba bất thiện tầm, ba tư duy tầm cầu bất thiện. Xem Trường No 1(7); D. 33. Saṅgīti.

 [49] Pāli: kāmadhātu, kāmasaññā, kāmasaṃkappo, kāmachando, kāmapariḷāho, kāmapariyesanā.

 [50] Hán: hữu ngại, hữu não 有礙, 有惱. Pāli: sa-vighātaṃ, sa-upayāsaṃ.

 [51] Tham chiếu Pāli: upannaṃ visamagataṃ saññaṃ na khippameva pajahati, không nhanh chóng loại bỏ ý tưởng bất chánh đang sanh khởi. Pāli, visamagata, bất chánh, Hán đọc là visaṃgata, (bị chi phối bởi) độc hại.

 [52] Hán: bất giác 不覺; có lẽ là na vinodeti, không bài trừ, nhưng bản Hán đọc là na vedeti: không cảm giác.

 [53] Xuất yếu tưởng 出要想. Pāli: nekkhamavitakka (tư duy tầm cầu sự thoát ly ).

 [54] Xem Trung A-hàm, No 1(7): ba thiện giới: xuất ly giới, vô nhuế giới, vô hại giới; D. 33.: tisso kusaladhātuyo: nekkhamadhātu, avyāpādadhātu, avihiṃsādhātu.

 [55] Pāli: đa văn Thánh đệ tử (sutavā ariyasāvako)

 [56] Bất nhuế, bất hại tưởng 不恚, 不害想; Pāli: avyāpādavitakka, avihiṃsāvitakka.

 [57] Khong lìa bỏ tưởng bất hại.

 [58] Nguyên Hán: bất giác. Xem cht. 26 trên.

 [59] Đại chánh, kinh 359. Pāli, A. 6. 38. Attakārī.

 [60] Phương tiện giới 方便界; ở đây, phương tiện đồng nghĩa gia hành (Pāli: payoga), chỉ sư chuẩn bị phát khởi hànhh động. Pāli: ārabbhadhātu, phát khởi giới (xuất phát hành động).

 [61] Pāli: yaṃ kho, brāhmaṇa, ārabbhadhātuyā sati ārabbhavanto sattā paññāyanti, ayaṃ sattānaṃ attakāro ayaṃ parakāro, cài gì mà trong khi khởi sự làm, chúng sanh biết đang khởi sự làm, cái đó là việc tự mình làm, cái đó là việc người khác làm, của chúng sanh.

 [62] An trụ giới, kiên cố giới, xuất giới, tạo tác giới. Pāli: nikkamadhātu (xuất hành giới), thāmadhātu (thế lực giới), ṭhitidhātu (an trụ giới), upakkamadhātu (công kích giới).

 [63] Đại chánh, kinh 460. S. 35. 129. Ghosita.

 [64] Câu-diệm-di Cù-sử-la viên 拘睒彌國瞿師羅園, một tinh xá do Cù-sư-la (Pāli: Ghosita) dựng ở Câu-diệm-di (Kosambī).

 [65] Cù-sư-la trưởng giả 瞿師羅. Pāli: Ghosita-gahapati.

 [66] Chủng chủng giới 種種界. Pāli: dhātunānattaṃ, sự đa dang của giới.

 [67] Pāli: saṃvijjati cakkhudhātu rūpā ca manāpā, có nhãn giới và có sắc khả ý.

 [68] Pāli: saṃvijjati cakkhudhātu rūpā ca amanāpā (…) phassaṃ paṭicca uppajjati dukkhā vedanā, có nhãn giới và sắc không khả ý (…) duyên xúc khổ thọ phát sanh.

 [69] Đại chánh, kinh 461. Tham chiếu It. 51.

 [70] Câu-diệm-di Cù-sử-la viên 拘睒彌國瞿師羅園, một tinh xá do Cù-sử-la (Pāli: Ghosita) dựng ở Câu-diệm-di (Kosambī).

 [71] Pāli (Cf. It. 51): kāyena amataṃ dhātuṃ phusayitvā nirūpadhiṃ, bằng tự thân, chứng nghiệm bất tử giới (cam lộ giới), chứng vô dư y.

 [72] Hán: vô ưu ly cấu cú 無憂離垢句. Pāli (Cf. It.51): deseti sammāsambuddho asokaṃ virajaṃ padan ti, Đấng Chánh giác chỉ rõ dấu chân không ưu phiền, không cấu nhiễm.

 [73] Đại chánh, kinh 462.

 [74] Câu-diệm-di Cù-sử-la viên 拘睒彌國瞿師羅園, một tinh xá do Cù-sử-la (Pāli: Ghosita) dựng ở Câu-diệm-di (Kosambī).

 [75] Cf. It. 51: tisso dhātuyo: rūpadhātu, ārūpadhātu, nirodhadhātu.

 [76] Đại chánh, kinh 463.

 [77] Đại chánh, kinh 464.

 [78] Thượng tọa Thượng Tọa danh giả 上座上座名者. Không rõ Pāli.

 [79] Chỉ và quán. Pāli: samatha, vipassanā (xa-ma-tha, tỳ-bát-xa-na)

 [80] Đại chánh, kinh 465. S. 18. 21. Anusaya; tham chiếu S. 22. 91. Rāhulo.

 [81] Ngã, ngã sở kiến, ngã mạn hệ trước sử. Pāli: ahaṃkāramamaṃkāramāmānusayā, các tùy miên ngã, ngã sở và mạn.