24. Tương Ưng tu chứng, Kinh 859-877

24. TƯƠNG ƯNG TU CHỨNG [1]

KINH 859. TỨ CHỦNG ĐIỀU PHỤC [2]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có bốn chúng được điều phục hoàn hảo. Những gì là bốn? Đó là Tỳ-kheo được điều phục, Tỳ-kheo ni được điều phục, Ưu-bà-tắc được điều phục, Ưu-bà-di được điều phục. Đó gọi là bốn chúng.”

 Rồi Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Hoặc bin tài, [3] vô úy, [4]

Đa văn, thông đạt pháp;

Hướng pháp tùy pháp hành, [5]

Đó là chúng toàn thiện.

Tỳ-kheo giữ tịnh giới,

Tỳ-kheo-ni đa văn;

Ưu-bà-tắc tịnh tín,

Ưu-bà-di cũng vậy.

Đó là chúng toàn thiện,

Như mặt trời tự chiếu.

Tăng toàn thiện cũng vậy,

Đó là thiện trong Tăng.

Pháp khiến Tăng toàn thiện, [6]

Như mặt trời tự chiếu.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

Như điều phục, cũng vậy, biện tài, nhu hòa, vô úy, đa văn, thông đạt pháp, nói pháp, pháp thứ pháp hướng, tùy thuận pháp hành, cũng nói như vậy.

KINH 860. TAM CHỦNG TỬ [7]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có ba loại con. Những gì là ba? Con tùy sanh, [8] con thắng sanh, [9] con hạ sanh. [10]

“Thế nào là con tùy sanh? Cha mẹ của con không sát hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uông rượu; con cũng học theo không sát hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống ruợu. Đó gọi là con tùy sanh.

“Thế nào là con thắng sanh? Cha mẹ của con không thọ giới không sát hại, không trộm cắp, không tà dâm không nói dối, không uống rượu; nhưng con lại lãnh thọ giới không sát hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống ruợu. Đó gọi là người con thắng sanh.

“Thế nào là con hạ sanh? Cha mẹ của con chịu lãnh thọ giới không sát hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống ruợu; nhưng con lại không lãnh thọ giới không sát hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống ruợu. Đó [221a] gọi là con hạ sanh.”

Rồi Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Tùy sanh và thượng sanh,

Cha có trí đều mong.

Hạ sanh, người không cần,

Vì không thể kế nghiệp.

Phép làm người của con,

Là làm Ư-bà-tắc;

Đối Phật, Pháp, Tăng bảo,

Cần tu tâm thanh tịnh.

Mây tan ánh trăng hiện,

Vẻ vang dòng quyến thuộc.

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

Như Năm giới, cũng vậy, kinh Tín, Giới, Thí, Văn, Tuệ cũng nói như vậy.

KINH 861. TỨ CHÁNH ĐOẠN [11]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có bốn chánh đoạn. [12] Những gì là bốn? Một là đoạn đoạn, hai là luật nghi đoạn, ba là tùy hộ đoạn, bốn là tu đoạn.” [13]

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 862. TỨ CHÁNH ĐOẠN [14]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có bốn chánh đoạn. [15] Những gì là bốn? Một là đoạn đoạn, hai là luật nghi đoạn, ba là tùy hộ đoạn, bốn là tu đoạn.” [16]

Sau đó Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Đoạn đoạn và luật nghi,

Tùy hộ cùng tu tập;

Như bốn chánh đoạn này,

Chư Phật đều đã dạy.

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 863. TỨ CHÁNH ĐOẠN [17]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có bốn chánh đoạn. Những gì là bốn? Một là đoạn đoạn, hai là luật nghi đoạn, ba là tùy hộ đoạn, bốn là tu đoạn.”

“Thế nào là đoạn đoạn? [18] Tỳ-kheo, pháp ác bất thiện đã khởi thì đoạn trừ, khởi dục, [19] phương tiện, [20] tinh cần, [21] nhiếp tâm gìn giữ. [22] Đó gọi là đoạn đoạn. [23]

“Thế nào là luật nghi đoạn? [24] Pháp ác bất thiện chưa khởi, không cho khởi, khởi dục, phương tiện, tinh cần, nhiếp tâm gìn giữ. Đó gọi là luật nghi đoạn. [25]

“Thế nào là tùy hộ đoạn? [26] Pháp thiên chưa sinh thì khiến cho sinh khởi, khởi dục, phương tiện, tinh cần, nhiếp tâm gìn giữ. Đó gọi là tùy hộ đoạn. [27]

“Thế nào là tu đoạn? [28] Pháp thiện đã khởi, khiến tu tập thêm ích lợi, khởi dục, phương tiện, [221b] tinh cần, nhiếp tâm gìn giữ. Đó gọi là tu đoạn.” [29] 

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 864. TỨ CHÁNH ĐOẠN [30]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có bốn chánh đoạn. Những gì là bốn? Một là đoạn đoạn, hai là luật nghi đoạn, ba là tùy hộ đoạn, bốn là tu đoạn.”

“Thế nào là đoạn đoạn? Tỳ-kheo, pháp ác bất thiện đã khởi thì đoạn trừ, khởi dục, phương tiện, tinh cần, nhiếp tâm gìn giữ. Đó gọi là đoạn đoạn.

“Thế nào là luật nghi đoạn? Pháp ác bất thiện chưa khởi, không cho khởi, khởi dục, phương tiện, tinh cần, nhiếp tâm gìn giữ. Đó gọi là luật nghi đoạn.

“Thế nào là tùy hộ đoạn? Pháp thiên chưa sinh thì khiến cho sinh khởi, khởi dục, phương tiện, tinh cần, nhiếp tâm gìn giữ. Đó gọi là tùy hộ đoạn.

“Thế nào là tu đoạn? Pháp thiện đã khởi, khiến tu tập thêm ích lợi, khởi dục, phương tiện, tinh cần, nhiếp tâm gìn giữ. Đó gọi là tu đoạn.”

Sau đó Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Đoạn đoạn và luật nghi,

Tùy hộ cùng tu tập;

Như bốn chánh đoạn này,

Chư Phật đều đã dạy.

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 865 TỨ CHÁNH ĐOẠN [31]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có bốn chánh đoạn. Những gì là bốn? Một là đoạn đoạn, hai là luật nghi đoạn, ba là tùy hộ đoạn, bốn là tu đoạn.”

 “Thế nào là đoạn đoạn? Tỳ-kheo, pháp ác bất thiện đã khởi thì đoạn trừ, khởi dục, phương tiện, tinh cần, nhiếp tâm gìn giữ õ; pháp ác bất thiện chưa khởi, không cho khởi, khởi dục, phương tiện, tinh cần, nhiếp tâm gìn giữ; pháp thiện chưa sinh, khiền cho sinh khởi, khởi dục, phương tiện, tinh cần, nhiếp tâm gìn giữ; pháp thiện đã sinh, khiến cho tu tập thêm lợi ích, khởi dục, phương tiện, tinh cần, nhiếp tâm gìn giữ. Đó gọi là đoạn đoạn.

“Thế nào là luật nghi đoạn? Tỳ-kheo khéo phòng hộ căn con mắt, giữ kín chặt, chế ngự, tiến hướng. Cũng vậy, đối với các căn tai, mũi, lưỡi, thân, ý, khéo phòng hộ, giữ kín chặt, chế ngự, tiến hướng . Đó gọi là luật nghi đoạn.

“Thế nào là tùy hộ đoạn? Tỳ-kheo đối với mỗi một tướng tam-muội chơn thật, như tướng xanh bầm, tướng sình chướng, tướng mưng mủ, tướng hoại, tướng thú ăn chưa sạch, mà khéo bảo vệ hộ trì, tu tập, giữ gìn, không khiến cho sút giảm. Đó gọi là tùy hộ đoạn.

“Thế nào là tu đoạn? Tỳ-kheo nào tu tập bốn niệm xứ, đó gọi là tu đoạn.” [32]

Sau [221c] đó Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Đoạn đoạn, luật nghi đoạn,

Tùy hộ, tu tập đoạn;

Bốn thứ chánh đoạn này,

Những gì Chánh giác nói.

Tỳ-kheo siêng phương tiện,

Các lậu sẽ sạch hết.

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

Như Bốn niệm xứ. cũng vậy, Bốn chánh đoạn, Bốn như ý túc, Năm căn, Năm lực, Bảy giác chi, Tám đạo chi, Bốn đạo, Bốn pháp cú, Chánh quán tu tập cũng nói như vậy.

KINH 866. BẤT PHÓNG DẬT [33]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Thí như có người tạo dựng công trình nơi thế gian, tất cả đều y cứ trên đất. Cũng vậy, Tỳ-kheo tu tập pháp thiền, tất cả cũng đều y cứ vào không buông lung để làm căn bổn, lấy không buông lung [34] làm tập khởi, lấy không buông lung làm sinh khởi, lấy không buông lung làm chuyển khởi. Tỳ-kheo nào, không buông lung thì có khả năng tu tập bốn thiền.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 867. ĐOẠN TAM [35]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

Như đã nói ở trên, nhưng có một vài sai biệt:

“Tỳ-kheo như vậy có khả năng đoạn tham dục, sân nhuế, ngu si.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

Như đoạn tham dục, sân nhuế, ngu si, cũng vậy, điều phục tham dục, sân nhuế, ngu si, và sự rốt ráo đoạn tham dục, rốt ráo đoạn sân nhuế, ngu si, giải thoát, xa lìa, Niết-bàn cũng nói như vậy.

KINH 868. BẤT PHÓNG DẬT CĂN BẢN [36]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Thí như trăm thứ cây, cỏ, thảo dược đều nương vào đất mà được sanh trưởng. Cũng vậy, tất cả mọi pháp thiện đều y cứ vào không buông lung làm gốc. Như đã nói ở trên… cho đến Niết-bàn.

“Thí như hương hắc trầm thủy là loại hương trên các loại hương. Cũng vậy, trong các loại thiện pháp, không buông lung là trên hết.

“Thí như trong các loại hương lõi, [37] xích chiên đàn là bậc nhất. Cũng vậy, trong các thiện pháp, tất cả đều lấy không buông lung làm căn bổn. Như vậy… [222a] cho đến Niết-bàn.

“Thí như các loài hoa sống ở dưới nước và trên đất, hoa ưu-bát-la là bậc nhất. Cũng vậy, tất cả các thiện pháp đều lấy không buông lung làm căn bản,… cho đến Niết-bàn.

“Thí như hoa sinh sống từ đất, hoa ma-lợi-sa là bậc nhất. Cũng vậy, tất cả mọi thiện pháp đều lấy không buông lung làm căn bổn cho chúng,... cho đến Niết-bàn.

“Này các Tỳ-kheo, thí như trong tất cả các dấu chân của loài thú, dấu chân voi là hơn hết. Cũng vậy, trong tất cả các thiện pháp, không buông lung là pháp căn bổn hơn cả. Như đã nói ở trên,… cho đến Niết-bàn.

“Thí như trong tất cả các loài thú, sư tử là đệ nhất, vì nó là chúa tể của loài thú. Cũng vậy, trong tất cả các thiện pháp, không buông lung là căn bổn của chúng. Như đã nói ở trên,… cho đến Niết-bàn.

“Thí như tất cả nhà cửa lầu các, cái nóc là trên hết. Cũng vậy, trong tất cả các pháp thiện, không buông lung là căn bổn của chúng.

“Thí như trong tất cả mọi thứ quả trong cõi Diêm-phù, chỉ có quả tên là diêm-phù là bậc nhất. Cũng vậy, trong tất cả pháp thiện, không buông lung là căn bổn của chúng.

“Thí như trong tất cả các loại cây như cây câu-tì-đà-la, [38] cây tát-bà-da chỉ-la-câu-tì-đà-la là đệ nhất. Cũng vậy, trong tất cả các pháp thiện, không buông lung là căn bổn. Như đã nói ở trên,… cho đến Niết-bàn.

“Thí như trong các núi, Tu-di sơn là bậc nhất. Cũng vậy, trong tất cả các pháp thiện, không buông lung là căn bổn của chúng. Như đã nói ở trên,… cho đến Niết-bàn.

“Thí như trong tất cả các loại vàng, vàng diêm-phù-đàn là bậc nhất. Cũng vậy, trong tất cả các pháp thiện, không buông lung là căn bổn của chúng. Như đã nói ở trên,… cho đến Niết-bàn.

“Thí như trong tất cả các loại vải, vải lông mịn già-thi [39] là đệ nhất. Cũng vậy, trong tất cả các pháp thiện, không buông lung là căn bổn của chúng. Như đã nói ở trên,… cho đến Niết-bàn.

“Thí như trong tất cả các loại màu, màu trắng là bậc nhất. Cũng vậy, trong tất cả các pháp thiện, không buông lung là căn bổn của chúng. Như đã nói ở trên,… cho đến Niết-bàn.

“Thí như trong tất cả các loài chim, Kim-sí điểu [40] là đệ nhất, vì nó là chúa tể của loài súc sanh. Cũng vậy, trong tất cả các thiện pháp, không buông lung là căn bổn của chúng. Như đã nói ở trên,… cho đến Niết-bàn.

“Thí như trong tất cả các vua, Chuyển luân Thánh vương là bậc nhất. Cũng vậy, trong tất cả các pháp thiện, không buông lung là căn bổn của chúng. Như đã nói ở trên,… cho đến Niết-bàn.

“Thí như trong tất cả các Thiên vương, Tứ Đại Thiên vương là bậc nhất. Cũng vậy, trong tất cả pháp thiện, không buông lung là căn bổn của chúng. Như đã nói ở trên,… cho đến Niết-bàn.

“Thí như trong tất cả các trời Tam Thập Tam, [222b] thì Đế Thích là đệ nhất. Cũng vậy, trong tất cả các pháp thiện, không buông lung là căn bổn. Như đã nói ở trên,… cho đến Niết-bàn.

“Thí như trong cõi Diệm-ma thiên, Tú-diệm-ma thiên vương [41] là bậc nhất. Cũng vậy, trong tất cả các pháp thiện, không buông lung là căn bổn của chúng. Như đã nói ở trên,… cho đến Niết-bàn.

“Thí như trong cõi Đẩu-suất-đà thiên, Đâu-suất-đà thiên vương [42] là bậc nhất. Cũng vậy, trong tất cả các pháp thiện, không buông lung là căn bổn của chúng. Như đã nói ở trên,… cho đến Niết-bàn.

“Thí như trong cõi Hóa-lạc thiên, Thiện Hóa-lạc thiên vương [43] là đệ nhất. Cũng vậy, trong tất cả các pháp thiện, không buông lung là căn bổn của chúng. Như đã nói ở trên,… cho đến Niết-bàn.

“Thí như trong cõi Tha hóa tự tại thiên, Thiện Tha hóa tự tại Thiên tử [44] là bậc nhất. Cũng vậy, trong tất cả các pháp thiện, không buông lung là căn bổn của chúng. Như đã nói ở trên,… cho đến Niết-bàn.

“Thí như trong cõi Phạm thiên, Đại Phạm thiên vương là bậc nhất. Cũng vậy, trong các thiện pháp, tất cả đều lấy không buông lung làm căn bổn. Như vậy… cho đến Niết-bàn.

“Thí như tất cả các dòng sông ở Diêm-phù-đề đều xuôi về biển lớn, biển lớn là bậc nhất, vì nó dung chứa tất cả. Cũng vậy, tất cả các thiện pháp đều thuận dòng với không buông lung. Như đã nói ở trên,… cho đến Niết-bàn.

“Thí như tất cả nước mưa đều đổ về biển cả. Cũng vậy, tất cả mọi thiện pháp đều xuôi dòng về biển không buông lung. Như đã nói ở trên, ... cho đến Niết-bàn.

“Thí như trong tất cả các hồ nước, [45] hồ A-nậu-đại [46] là bậc nhất. Cũng vậy, trong tất cả các thiện pháp, không buông lung làbậc nhất. Như đã nói ở trên,… cho đến Niết-bàn.

“Thí như trong tất cả các sông ở Diêm-phù-đề, có bốn con sông lớn bậc nhất đó là: sông Hằng, Tân-đầu, Bác-xoa, và Tư-đa. [47] Cũng vậy, trong tất cả các thiện pháp, không buông lung là căn bổn của chúng. Như đã nói ở trên,… cho đến Niết-bàn.

“Thí như trong ánh sáng của các tinh tú, mặt trăng là bậc nhất. Cũng vậy, trong tất cả các pháp thiện, không buông lung là bậc nhất. Như đã nói ở trên,… cho đến Niết-bàn.

“Thí như trong các chúng sanh có thân lớn, La-hầu-la A-tu-la [48] là bậc nhất. Cũng vậy, trong tất cả pháp thiện, không buông lung là căn bổn của chúng. Như đã nói ở trên,… cho đến Niết-bàn.

“Thí như trong các hạng hưởng thụ năm dục, Đảnh Sanh vương [49] là đệ nhất. Cũng vậy, trong tất cả các pháp thiện, không buông lung là căn bổn. Như đã nói ở trên,… cho đến Niết-bàn.

“Thí như trong các thần lực ở cõi dục, Thiên Ma Ba-tuần là bậc nhất. Cũng vậy, trong tất cả các pháp thiện, không buông lung là [222c] căn bổn của chúng. Như đã nói ở trên,… cho đến Niết-bàn.

“Thí như trong tất cả các loài chúng sanh không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân; có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, chẳng phải tưởng chẳng phải không tưởng, Như lai là bậc nhất. Cũng vậy, trong tất cả các pháp thiện, không buông lung là căn bổn của chúng. Như đã nói ở trên,… cho đến Niết-bàn.

“Thí như trong tất cả các pháp hữu vi, vô vi, lìa tham dục là đệ nhất. Cũng vậy, trong tất cả các pháp thiện, không buông lung là căn bổn của chúng. Như đã nói ở trên,… cho đến Niết-bàn.

“Thí như trong tất cả các pháp chúng, chúng của Như lai là bậc nhất. Cũng vậy, trong tất cả các pháp thiện, không buông lung là căn bổn của chúng. Như đã nói ở trên,… cho đến Niết-bàn.

“Thí như trong tất cả các giới, khổ hạnh, phạm hạnh; Thánh giới [50] là đệ nhất. Cũng vậy, trong tất cả các thiện pháp, không buông lung là căn bổn của chúng. Như đã nói ở trên,… cho đến Niết-bàn.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 869. TỨ CHỦNG THIỀN [51]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có bốn loại thiền. [52] Có loại thiền, tam-muội thiện, [53] nhưng chẳng phải chánh thọ thiện; [54] có loại thiền, chánh thọ thiện, nhưng chẳng phải tam-muội thiện; có loại thiền tam-muội thiện, mà chánh thọ cũng lại thiện; có loại thiền chẳng phải tam-muội thiện, và cũng chẳng phải chánh thọ thiện.

“Lại có bốn loại thiền nữa. Có loại thiền, trụ tam-muội thiện, nhưng chẳng phải trụ chánh thọ thiện; [55] có loại thiền, trụ chánh thọ thiện, nhưng chẳng phải trụ tam-muội thiện; có loại thiền, trụ tam-muội thiện, nhưng cũng trụ chánh thọ thiện; có loại thiền, chẳng phải trụ tam-muội thiện, mà cũng chẳng phải trụ chánh thọ thiện.

“Lại có bốn loại thiền nữa. Có loại thiền, tam-muội khởi thiện, [56] nhưng chẳng phải chánh thọ khởi thiện; có loại thiền, chánh thọ khởi thiện, nhưng chẳng phải tam-muội khởi thiện; có loại thiền, tam-muội khởi thiện, và chánh thọ cũng khởi thiện; có loại thiền, chẳng phải tam-muội khởi thiện, và cũng chẳng phải chánh thọ khởi thiện.

“Lại có bốn loại thiền nữa. Có loại thiền, thiện khi tam-muội, nhưng không phải thiện khi chánh thọ thiện; [57] có loại thiền, thiện khi chánh thọ thiện, nhưng không phải thiện khi tam-muội; có loại thiền, thiện khi tam-muội thiện, cũng thiện khi Chánh thọ thiện; có loại thiền, chẳng phải thiện khi tam-muội, cũng chẳng phải thiện khi Chánh thọ.

“Lại có bốn loại thiền nữa. Có loại thiền, tam-muội xứ thiện, nhưng chẳng phải chánh thọ xứ thiện; [58] có loại thiền, chánh thọ xứ thiện, nhưng chẳng phải tam-muội xứ thiện; có loại thiền, tam-muội xứ thiện, chánh thọ cũng xứ thiện; có loại thiền, chẳng phải tam-muội xứ thiện, cũng chẳng phải chánh thọ [223a] xứ thiện.

“Lại có bốn loại thiền nữa: Có loại thiền, tam-muội nghinh thiện, nhưng chẳng phải chánh thọ nghinh thiện; có loại thiền, chánh thọ nghinh thiện, nhưng chẳng phải tam-muội nghinh cũng thiện; có loại thiền, tam-muội nghinh thiện, chánh thọ nghinh thiện; có loại thiền chẳng phải tam-muội nghinh thiện, và cũng chẳng phải chánh thọ nghinh thiện.

“Lại có bốn loại thiền nữa: Có loại thiền, tam-muội niệm thiện, nhưng chẳng phải chánh thọ niệm thiện; có loại thiền, chánh thọ niệm thiện, nhưng chẳng phải tam-muội niệm thiện; có loại thiền, tam-muội niệm thiện, chánh thọ niệm cũng thiện; có loại thiền, chẳng phải tam-muội niệm thiện, ø cũng chẳng phải chánh thọ niệm thiện.

“Lại có bốn loại thiền nữa: Có loại thiền, tam-muội niệm bất niệm thiện, nhưng chẳng phải chánh thọ niệm bất niệm thiện; có loại thiền, chánh thọ niệm bất niệm thiện, nhưng chẳng phải tam-muội niệm bất niệm thiện; có loại thiền, tam-muội niệm bất niệm thiện, nhưng chánh thọ niệm bất niệm cũng thiện; có loại thiền, chẳng phải tam-muội niệm bất niệm thiện, cũng chẳng phải chánh thọ niệm bất niệm thiện.

“Lại có bốn loại thiền nữa: Có loại thiền, tam-muội đến thì thiện, nhưng chẳng phải chánh thọ đến [59] thì thiện; có loại thiền, chánh thọ đến thì thiện, nhưng tam-muội đến thì không thiện; có loại thiền, tam-muội đến thì thiện, chánh thọ đến thì cũng thiện; có loại thiền, chẳng phải tam-muội đến thiện, và cũng chẳng phải chánh thọ đến thiện.

“Lại có bốn loại thiền nữa: Có loại thiền, tam-muội ác thì thiện, chánh thọ ác thì không thiện; có loại thiền, chánh thọ ác thì thiện, tam-muội ác thì không thiện; có loại thiền, tam-muội ác thì thiện, chánh thọ ác cũng thiện; có loại thiền, chẳng phải tam-muội ác thiện, và cũng chẳng phải chánh thọ ác thiện.

“Lại có bốn loại thiền nữa: Có loại thiền tam-muội phương tiện thiện, nhưng chẳng phải chánh thọ phương tiện thiện; có loại thiền chánh thọ phương tiện thiện, nhưng chẳng phải tam-muội phương tiện thiện; có loại thiền tam-muội phương tiện thiện, và chánh thọ cũng phương tiện thiện; có loại thiền chẳng phải tam-muội phương tiện thiện, mà cũng chẳng phải chánh thọ phương tiện thiện.

“Lại có bốn loại thiền nữa: Có loại thiền tam-muội chỉ thiện, nhưng chẳng phải chánh thọ chỉ thiện; có loại thiền chánh thọ chỉ thiện, nhưng chẳng phải Tam-muội chỉ thiện; có loại thiền tam-muội chỉ thiện, chánh thọ cũng chỉ thiện; có loại thiền chẳng phải tam-muội chỉ thiện, và cũng chẳng phải chánh thọ chỉ thiện

“Lại có bốn loại thiền nữa: Có loại thiền tam-muội cử thiện, nhưng chẳng phải chánh thọ cử thiện; có loại thiền chánh thọ cử thiện, nhưng chẳng phải tam-muội cử thiện; có loại thiền tam-muội cử thiện, và chánh thọ cũng cử thiện; có loại thiền chẳng phải tam-muội cử thiện, mà cũng chẳng phải chánh thọ cử thiện.

“Lại có bốn loại thiền nữa: Có loại thiền tam-muội xả thiện, nhưng chẳng phải chánh thọ xả thiện; có loại thiền chánh thọ xả thiện, nhưng chẳng phải tam-muội xả thiện; có loại thiền tam-muội xả thiện, chánh thọ cũng xả thiện; có loại [223b] thiền chẳng phải tam-muội xả thiện, và cũng chẳng phải chánh thọ xả thiện.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 870. VÔ HỌC TAM MINH [60]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Bậc Vô học có ba minh. Những gì là ba? Trí túc mạng chứng thông của bậc Vô học, trí sinh tử chứng thông của bậc Vô học, trí lậu tận chứng thông của bậc Vô học.”

Sau đó Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Quán sát biết đời trước,

Thấy trời sinh đường dữ.

Các lậu sanh tử hết,

Là Minh của Mâu-ni.

Tâm ấy được giải thoát

Tất cả những tham ái;

Ba nơi đều thông suốt,

Nên gọi là ba minh.

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 871. VÔ HỌC TAM MINH [61]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Bậc Vô học có ba minh. Những gì là ba? Túc mạng trí chứng thông của bậc Vô học, sinh tử trí chứng thông của bậc Vô học, lậu tận trí chứng thông của bậc Vô học.

“Thế nào là túc mạng chứng trí thông của bậc Vô học? Thánh đệ tử biết tất cả mọi sự từ các đời trước. Từ một đời đến trăm, nghìn, vạn, ức đời; cho đến số kiếp thành hoại; rằng, ‘Các dời sống trước của ta và chúng sanh, có những tên như vậy, sinh ra như vậy, dòng họ như vậy, ăn như vậy, cảm thọ khổ lạc như vậy, tuổi thọ dài như vậy, sống lâu như vậy, giới hạn tuổi thọ như vậy. Ta và chúng sanh chết ở chỗ này, sinh ra chỗ khác; chết chỗ khác sinh ra chổ này, có hành như vậy, nhân như vậy, tín như vậy.’ Tất cả mọi việc đã trải qua trong đời sống trước đều biết rõ ràng. Đó gọi là trí túc mạng chứng minh.

“Thế nào là sinh tử trí chứng minh? Thánh đệ tử, bằng thiên nhãn thanh tịnh vượt qua đối mắt người, thấy các chúng sanh lúc chết, lúc sinh, đẹp, xấu, thượng sắc, hạ sắc, theo nghiệp mà thọ sinh vào đường dữ. Biết như thật rằng như chúng sanh này thành tựu thân ác hành, thành tựu miệng, ý ác hành, hủy báng Thánh nhơn, tà kiến, nhận lãnh tà pháp; do nhân duyên này sau khi thân hoại mạng chung sinh vào trong đường dữ địa ngục. Chúng sanh này do thành tựu thân thiện hành, thành tựu miệng, ý thiện hành, không hủy báng Thánh nhơn, đã thành tựu chánh kiến, nên sau khi thân hoại mạng chung sinh vào trong đường trời người. [223c] Đó gọi là trí sinh tử chứng minh.

“Thế nào là lậu tận trí chứng minh? Thánh đệ tử biết như thật, ‘Đây là Khổ, ‘Đây là Khổ tập,’ ‘Đây là Khổ diệt,’ ‘Đây là Khổ diệt đạo.’ Vị ấy biết như vậy, thấy như vậy, tâm giải thoát dục lậu, tâm giải thoát hữu lậu, tâm giải thoát vô minh lậu, với giải thoát tri kiến, biết rằng, ‘Ta, sự sanh đã hết, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, không còn tái sinh đời sau nữa.’ Đó gọi là lậu tận chứng trí minh.”

 Sau đó Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Quán sát biết đời trước,

Thấy trời sinh đường dữ.

Các lậu sinh tử hết,

Là Minh của Mâu-ni.

Tâm ấy được giải thoát

Tất cả những tham ái;

Ba nơi đều thông suốt,

Nên gọi là ba minh.

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 872. TAM MINH [62]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ có Bà-la-môn [63] đi đến chỗ Phật gặp Thế Tôn, sau khi thăm hỏi nhau rồi, ngồi lui qua một bên và nói:

“Đây là ba minh của Bà-la-môn! [64] Đây là Ba minh của Bà-la-môn!”

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Bà-la-môn rằng:

“Thế nào gọi là ba minh của Bà-la-môn?”

Bà-la-môn bạch Phật rằng:

“Thưa Cù-đàm, cha mẹ Bà-la-môn đầy đủ các tướng, [65] không có các tì vết; [66] cha mẹ bảy đời truyền thừa mà không bị chê bai; đời đời kế thừa nhau, luôn làm sư trưởng, biện tài đầy đủ; độc tụng các kinh điển, danh tự của loại vật, phảm loại sai biệt của vạn vật; lịch sử cổ kim, [67] năm thứ ký này, [68] tất cả đều đuộc thông suốt; dung sắc đoan chánh. Thưa Cù-đàm, đó gọi là ba minh của Bà-la-môn.”

Phật bảo Bà-la-môn :

“Ta không lấy ngôn thuyết, danh tự làm ba minh. Pháp môn của Hiền Thánh nói ba minh chân thật [69] là, tri kiến Hiền Thánh, pháp luật Hiền Thánh. Đó là ba minh chân thật.”

Bà-la-môn bạch Phật:

“Như thế nào, thưa Cù-đàm, nói tri kiến Hiền Thánh, pháp luật Hiền Thánh là ba minh?”

Phật bảo Bà-la-môn :

“Có ba loại ba minh của bậc Vô học. Những gì là ba? Túc mạng chứng trí minh của bậc Vô học, sinh tử chứng trí minh của bậc Vô học, lậu tận chứng trí minh của bậc Vô học.” Như đã nói đầy đủ ở kinh trên.

 [224a] Sau đó Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Tất cả pháp vô thường,

Trì giới, thiền vắng lặng;

Biết tất cả đời trước,

Đã sinh trời, đường dữ.

Lậu hết, đoạn được sinh,

Là Thông của Mâu-ni.

Biết được tâm giải thoát

Tất cả tham, nhuế, si.

Ta nói là ba minh,

Chẳng theo ngôn ngữ nói.

“Này Bà-la-môn, đó là ba minh theo pháp luật của bậc Thánh đã nói.”

Bà-la-môn bạch Phật:

“Thưa Cù-đàm, đó là ba minh chân thật!”

Bà-la-môn sau khi nghe những gì Phật đã dạy, hoan hỷ, tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.

KINH 873. TÍN [70]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ có Bà-la-môn đi đến chỗ Phật gặp Thế Tôn, sau khi thăm hỏi nhau rồi, ngồi lui qua một bên bạch Phật:

“Thưa Cù-đàm, con tên là Tín.”

Phật bảo Bà-la-môn:

“Tín có nghĩa là tin vào tăng thượng giới, vào bố thí, đa văn, huệ xả, trí tuệ. Đó gọi là tín. Chứ không phải tín chỉ là một danh tự suông.”

Bà-la-môn sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.

KINH 874. TĂNG ÍCH [71]

Tôi nghe như vầy:

 Một thời, Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ có Bà-la-môn đi đến chỗ Phật gặp Thế Tôn, sau khi thăm hỏi nhau rồi, ngồi lui qua một bên bạch Phật rằng:

“Thưa Cù-đàm, con tên là Tăng Ích.”

Phật bảo Bà-la-môn :

“Tăng Ích có nghĩa là tăng ích cho tín; tăng ích cho giới, đa văn, huệ xả, và trí tuệ. Đó là Tăng ích. Chứ không phải tăng ích chỉ là một danh tự suông.”

Bà-la-môn sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.

KINH 875. ĐẲNG KHỞI [72]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ có Bà-la-môn đi đến chỗ Phật gặp Thế Tôn, sau khi thăm hỏi nhau rồi, ngồi lui qua một bên bạch Phật rằng:

“Con tên là Đẳng Khởi.”

Phật bảo Bà-la-môn :

“Đẳng khởi [73] có nghĩa là làm phát khởi tín; phát khởi giới, đa văn, huệ xả, và trí tuệ. Đó là đẳng khởi. Chứ không phải đẳng khởi chỉ là một danh tự suông.”

Bà-la-môn sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.

KINH 876. VÔ VI PHÁP [74]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Ta sẽ vì các ngươi nói về pháp vô vi [224b] cùng đạo tích vô vi, [75] hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ.

“Thế nào là pháp vô vi? Tham dục vĩnh viễn chấm dứt; sân nhuế, ngu si vĩnh viễn chấm dứt; tất cả mọi phiền não vĩnh viễn chấm dứt. Đó gọi là pháp vô vi.

“Thế nào là đạo tích vô vi? Tám chi Thánh đạo: Chánh kiến, chánh trí, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định. Đó gọi là đạo tích vô vi.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

Như Vô vi, cũng vậy nan kiến, bất động, bất khuất, bất tử, vô lậu, phú ấm, châu chữ, tế độ, y chỉ, ủng hộ, bất lưu chuyển, ly xí diệm, ly thiêu nhiên, lưu thông, thanh lương, vi diệu, an ổn, vô bệnh, vô sở hữu,, niết-bàn, cũng nói như vậy.

KINH 877. MAO ĐOAN [76]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Thí như ao hồ dài rộng năm mươi do tuần; chiều sâu cũng như vậy. Nếu có người dùng đầu một sợi lông nhúng vào nước hồ này, này Tỳ-kheo, thế nào, nước trong hồ này nhiều hơn hay là một chút nước dính trên đầu sợi lông nhiều?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, nước dính trên đầu sợi lông người này thì quá ít, so với vô lượng nước hồ gấp nghìn vạn ức thì không thể nào sánh được.”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Thấy chơn đế đầy đủ thì chánh kiến đầy đủ. Đệ tử của Thế Tôn nếu thấy quả chơn đế, chánh hiện quán, [77] vị ấy ngay lúc đó đã đoạn, đã biến tri, đã chặt đứt gốc rễ của nó, như cây đa-la đã bị chặt đứt ngọn không thể nào sống lại được. Những khổ đã được đoạn trừ thì nhiều đến vô lượng như nước trong hồ, còn cái khổ sót lại, ít như nước dính trên đầu sợi lông.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

Như giọt nước trên đầu sợi lông, cũng vậy giọt nước dính trên đầu ngọn cỏ cũng như vậy. Như nước trong ao hồ, cũng vậy nước sông Tát-la-đa-tra-già, sông Hằng, Da-phù-na, Tát-la-du, Y-la-bạt-đề, Ma-hê, và biển cả cũng nói như vậy.

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, đều hoan hỷ phụng hành.


 [1] Tụng V. Đạo phẩm. 9. Tương ưng tu chứng, gồm các kinh Đại chánh 873-891, giữa quyển 31. Ấn Thuận Hội biên, Tụng VII. Như lai sở thuyết, 38. Tương ưng tu chứng.

 [2] Đại chánh, kinh 873. Bốn loại huấn luyện. Pāli, A. 4. 7. Sobheti; Cf. No 125(27.7).

 [3] Biện tài 才辯. Pāli: viyatta, có năng lực, thông minh.

 [4] Vô úy 無畏, tức vô sở úy. Pāli: visārada, tự tin, không do dự.

 [5] Hành pháp thứ pháp hướng 行法次法向. Pāli: dhammassa hoti anudhammacārī,

 [6] Tăng hảo 僧好, Tăng trung hảo 僧中好, thiện chúng 善眾. Pāli: saṅghasobhaṇa, sự tỏa sáng giữa Tăng.

 [7] Đại chánh, kinh 874. Cf. Pāli,  It. 74. Putta.

 [8] Tùy sanh tử 隨生子. Pāli: anujāta, (con) giống cha; bằng cha.

 [9] Thắng sanh tử 勝生子 hay ưu sanh. Pāli: atijāta, con giỏi hơn cha.

 [10] Hạ sanh tử 下生子. Pāli: avajāta, con thấp kém.

 [11] Đại chánh, kinh 875. Tham chiếu, S. 49.1-12. Gaṅgā-peyyāla.

 [12] Chánh đoạn 正斷. Pāli: sammappadhāna, chánh cần.

 [13] Xem giải thích ở kinh Đại chánh 877.

 [14] Đại chánh, kinh 876.

 [15] Xem cht. 47, kinh 875.

 [16] Xem giải thích kinh 877.

 [17] Đại chánh, kinh 877.

 [18] Đoạn 斷斷. Pāli: pahāna-padhāna, tinh cần để đoạn trừ.

 [19] Sanh dục 生欲; Pāli: chandaṃ janeti, sanh khởi ý muốn, ý chí.

 [20] Phương tiện 方便, ở đây được hiểu là nỗ lực, không phải phương tiện thiện xảo. Pāli: vāyamati, vị ấy nỗ lực

 [21] Tinh cần 精勤, tức tinh tấn. Pāli: viriyaṃ ārabhati.

 [22] Nhiếp thọ 攝受. Pāli: citaṃ paggaṇhāti padahati, giữ chặt tâm và sách tiến tâm.

 [23] Đây gọi là bốn chánh cần, Pāli: cattāro sammappadhānā. Tham chiếu, D. 33. Saṅgīti: katamañc’āvuso pahāna-padhānaṃ? idh’ āvuso bhikkhu uppannaṃ kāma-vitakkaṃ nādhivāseti pajahati vinodeti ... , ở đây, tỳ kheo, dực tầm đã khởi, không thừa nhận nó, dđoạn trừ nó, tiêu diệt nó.

 [24] Luật nghi đoạn 律儀斷. Pāli: saṃvara-padhāna, tinh cần phòng hộ (chế ngự).

 [25] Tham chiếu, D.33: katamañ c’ āvuso saṃvarapadhānaṃ: idh ‘āvuso bhikkhu cakkhunā rūpaṃ dsvā na nimittaggāhī hoti ..., Thế nào là tinh cần phòng hộ? Tỳ kheo sau khi thấy sắc bởi mắt, không chấp thủ tướng...

 [26] Tùy hộ đoạn 隨護斷. Pāli: anurakkhaṇā-padhāna, tinh cần thủ hộ.

 [27] Cf. D.33: katamañ c’ āvuso anurakkhaṇa-padhānaṃ? idh’ āvuso bhikkhu uppannaṃ bhaddaṃ samādhi-nimittaṃ anurakkahti... Thế nào là tinh cần thủ hộ? Tỳ kheo thủ hộ định tướng (dấu hiệu của định) tốt đẹp đã khởi lên...

 [28] Tu đoạn 修斷. Pāli: bhāvana-padhāna, tinh cần tu tập.

 [29] Cf. D.33: (...) idh’ āvuso bhikkhu sati-saṃbojjhaṅgaṃ bhāveti ..., ở đây, tỳ kheo tu tập niệm giác chi...

 [30] Đại chánh, khinh 878.

 [31] Đại chánh, kinh 879.

 [32] Xem cht. 62, kinh 877.

 [33] Đại chánh, kinh 880.

 [34] Bất phóng dật 不放逸. Pāli: appamāda.

 [35] Đại chánh, kinh 881.

 [36] Đại chánh, kinh 882. Pāli, S. 49.13-22. Appamāda-vagga.

 [37] Hán: kiên cố chi hương 堅固之香. Pāli: sāragandha, hương liệu lấy từ lõi cây. sāra: kiên cố, cũng có nghĩa là lõi cây; Hán hiểu theo nghĩa trước.

 [38] Câu-tì-đà-la 俱毘陀羅. Pāli: koviḷāra, một loại hắc đàm, hay trầm đen.

 [39] Già-thi 伽尸. Pāli: Kāsi, địa danh, một trong 16 vương qước lớn thời Phật, nơi sản xuất vải danh tiếng.

 [40] Kim súy điểu 金翅鳥, chim cánh vàng. Pāli: garuḍa.

 [41] Tú-diệm-ma Thiên vương 宿焰摩天王. Pāli: Suyama-devarājā.

 [42] Đâu-suất-đà Thiên vương 兜率陀天王. Pāli: Tusita-devarājā.

 [43] Thiện Hóa lạc Thiên vương 善化樂天王. Pāli: Sunimmita-devarājā.

 [44] Thiện Tha hóa tự tại Thiên tử 善他化自在天子. Pāli: Suparanimmtavasavatta-devaputta.

 [45] Nguyên Hán: tát-la 薩羅. Pāli: sara, hồ, ao.

 [46] Nguyên Hán: A-nậu-đại tát-la 阿耨大薩羅. Pāli: Anotatta-sara.

 [47] Các sông lớn: Hằng hà 恒河, Tân-đầu 新頭, Bác-xoa 搏叉, Tư-đà 司陀. Pāli, theo thứ tự: Gaṅgā, Sindhū, Vaggu (?), Sīdī (?).

 [48] La-hầu-la A-tu-la 羅 [目*侯]羅阿修羅. Pāli: Rāhu-asurinda.

 [49] Đảnh sanh vương 頂生王. Pāli: Muddhāvasitta-rājā, vua Quán đảnh.

 [50] Thánh giới 聖界; có lẽ chính xác là giới (luật) chép nhầm.

 [51] Đại chánh, kinh 883. Pāli, cf.  S. 34. Jhānasaṃyutta.

 [52] Tứ chủng thiền 四種禪. Pāli: cattāto jhayī, bốn hạng thiền giả.

 [53] Tam-muội thiện 三昧善. Pāli: samādhismiṃ samādhikusalo, thiện xảo về định trong khi định. Sớ giải: thiện xảo phân biệt thiền chi trong các thiền.

 [54] Phi chánh thọ thiện 非正受善. Pāli: na samādhismiṃ samāpattikusalo, không thiện xảo về sự chứng nhập (đẳng chí) trong định. Sớ giải: sau khi đà làm cho tâm hoan hỷ, tâm thích ứng, nhưng không thể chứng nhập thiền.

 [55] Trụ tam-muội thiện phi trụ chánh thọ thiện 住三昧善非住正受善. Pāli: samādhismiṃ samādhikusalo na samādhismiṃ ṭhitikusalo, thiện xảo định trong định, nhưng không thiện xảo trụ lâu trong định.

 [56] Hán: phi chánh thọ khởi thiện 非正受起善. Pāli: na samādhismiṃ vuṭṭhanākusalo, không thiện xảo để xuất định.

 [57] Tam-muội thời thiện phi chánh thọ thời thiện 三昧時善非正受時善. Pāli: samādhismiṃ samādhikusalo na samādhismiṃ kallitakusalo, thiện xảo định trong định, nhưng không thiện xảo thích ứng trong định. Sớ giải: na samādhismiṃ kallitakusalo’ti cittaṃ hāsetvā nā kallaṃ kātuṃ akusalo, không thiện xảo thích ứng trong định, nghĩa là, sau khi đã làm cho tâm hoan hỷ, nhưng không thiện xảo khiến tâm thích ứng. Bản Hán đọc kāla: thời gian, thay vì kalla: thích ứng (cũng được hiểu là an lạc).

 [58] Phi chánh thọ xứ thiện 非正受處善. Pāli: na samādhismiṃ gocarakusalo, không thiện xảo về cảnh giới sở hành trong định.

 [59] Hán: chánh thọ lai 正受來. Không xác định được Pāli tương đương

 [60] Đại chánh, kinh 884. Pāli, A. 3. 58. Tīkaṇṇa.

 [61] Đại chánh, kinh 885. Pāli, A. 3.58. Tīkaṇṇa; 3.59. Jāṇussoni.

 [62] Đại chánh, kinh 886. Pāli, A. 3.58. Tikaṇṇa.

 [63] Pāli: Bà-la-môn Tikaṇṇa (ba lỗ tai).

 [64] Pāli: tevijjā brāhmaṇā,

 [65] Hán: phụ mẫu cụ tướng 父母具相. Pāli: ubhto sujāto mātito ca pitito ca, dòng dõi cha mẹ đều thiện (thuần chủng).

 [66] Hán: vô hà uế 無瑕穢. Pāli: akkhitto, không lai tạp.

 [67] Hán: lịch thế bản mạt 歷世本末. Pāli: itihāsa, truyện cổ.

 [68] Hán: thử ngũ chủng ký 此五種記, có thể sai. Pāli: (itihāsa) pañcamānaṃ, thứ năm là truyện cổ. Bốn môn trước: tiṇṇaṃ vedānaṃ: ba tập Veda, nighaṇḍu: ngữ vựng (Hán: vật loại danh tự), ketubha: sách nghi lễ (Hán: vạn vật phẩm sai?), akkharabheda: phân tích âm vận (Hán: tự loại phân hiệp).

 [69] Bản Cao ly: chân yếu 真要.

 [70] Đại chánh, kinh 887.

 [71] Đại chánh, kinh 888.

 [72] Đại chánh, kinh 889.

 [73] Đẳng khởi 等起; Pāli: samuṭṭhāna, sự xuất hiện, nguyên khởi nguyên động lực làm phát khởi.

 [74] Đại chánh, kinh 890. Pāli, S. 43.11-43. Maggena, v v.

 [75] Vô vi đạo tích 無為道跡. Pāli: asaṅkhatagāmimagga, con đường dẫn đến vô vi.

 [76] Đại chánh, kinh 891. Trên đầu sợi lông. Pāli, cf. S. 13. Abhisamayasaṃyutta.

 [77] Hán: chánh vô gián đẳng 正無間等; xem cht. kinh. (tìm trong các kinh đã chú thích)