17. Tương Ưng lực, Kinh 629-671

17. TƯƠNG ƯNG LỰC [1]

KINH 629. NHỊ LỰC (1) [2]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. [184b] Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có hai loại thứ lực. Những gì là hai? Lực của tư trạch [3] và lực của tu. [4] Thế nào là lực của tư trạch? Thánh đệ tử ở dưới gốc cây, ngồi trong rừng vắng, tư duy như vầy: ‘Đối với ác hành của thân, đời hiện tại này và đời sau chịu báo ác. Nếu ta gây hành vi ác bởi thân, tự ta phải chê trách, khiến cho người khác cũng chê trách. Đại Sư của ta cũng chê trách, [5] các đại đức đồng phạm hạnh của ta cũng chê trách. Ta sẽ bị khiển trách theo pháp, tiếng ác của ta được đồn khắp, sau khi thân hoại mạng chung sẽ đọa ác thú, sinh trong địa ngục. Đoạn trừ ác hành của thân có hiện báo và hậu báo như vậy; tu thiện hành của thân. Cũng như thân làm ác; miệng, ý làm ác cũng nói như vậy. Đó gọi là lực của tư trạch.

„Thế nào là lực của tu? Tỳ-kheo học lực của tư trạch. Thánh đệ tử sau khi thành tựu được lực của tư trạch, tùy thuận mà đạt được lực của tu. Khi có được lực của tu, lực của tu sẽ đầy đủ.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 630. NHỊ LỰC (2) [6]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Như đã nói ở trên, nhưng có một vài sai biệt:

“Thánh đệ tử đã học lực của tư trạch đã thành tựu; tham, nhuế, si hoặc bị tiết chê, hoặc bị dứt sạch. Thánh đệ tử y trên lực của tư trạch, xác lập trên lực của tư trạch như vậy, tùy thuận mà đạt được lực của tu. Khi đã có được lực của tu, lực của tu sẽ đầy đủ.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 631. NHỊ LỰC (3) [7]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Như trên đã nói, nhưng có một vài sai biệt:

“Cái gì là lực của tu? Đó là bốn niệm xứ.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Như bốn niệm xứ, cũng vậy tu bốn chánh đoạn, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám chi Thánh đạo, bốn đạo, [8] bốn pháp cú, [9] chỉ quán, cũng nói như vậy.

KINH 632. TAM LỰC (1) [10]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có ba thứ lực. Những gì  [184c] là ba? đó là lực tín, lực tinh tấn, lực tuệ. Lại có ba lực. Những gì là ba? Đó là lực tín, lực niệm, lực tuệ. Lại có ba lực. Những gì là ba? đó là lực tín, lực định, lực tuệ.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 633. TAM LỰC (2) [11]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có ba lực. Đó là lực tín, lực tinh tấn, lực tuệ. Như vậy Tỳ-kheo phải học như vầy: ‘Ta phải thành tựu lực tín, lực tinh tấn, lực tuệ.’”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 634. TAM LỰC (3) [12]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có ba lực: lực tín, lực niệm, lực tuệ. Lực tín là thế nào? Khi Thánh đệ tử đã thâm nhập tịnh tín nới Như Lai, có gốc rễ vững chắc, không có chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn cùng những kẻ đồng pháp nào có thể phá hoại được. Đó gọi là lực tín.

„Lực tinh tấn là những gì? Đó là bốn chánh đoạn. Lực tuệ là những gì? Là bốn thánh đế.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 635. TỨ LỰC (1) [13]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có bốn lực. Những gì là bốn? Là lực tín, lực tinh tấn, lực niệm, lực tuệ. Lại có bốn lực: lực tín, lực niệm, lực định, lực tuệ. Lại có bốn lực: lực giác, lực tinh tấn, lực vô tội, lực nhiếp.” [14]

Ba lực của những kinh này cũng nói như trên, nhưng chỉ có một vài sai biệt:

“Lực giác là thế nào? Biết như thật đối với pháp thiện, bất thiện; biết như thật là có tội, không tội; đang thân cận, [15] không thân cận; pháp thấp kém, pháp thắng diệu; pháp đen, pháp trắng; pháp có phân biệt, pháp không phân biệt; pháp duyên khởi, pháp phi duyên khởi. Đó gọi là lực giác. Lực tinh tấn là những gì? Là bốn chánh đoạn như đã nói đầy đủ ở trước. Lực không tội là thế nào? Là thân, miệng, ý không tạo tội; đó gọi là lực không tội. Lực nhiếp là những gì? Là bốn nhiếp sự. Đó là huệ thí, ái ngữ, hành lợi, đồng lợi.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan  [185a] hỷ phụng hành.

 

KINH 636. TỨ NHIẾP SỰ [16]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Như trên đã nói, nhưng có một vài sai biệt:

“Bố thí tối thắng, đó là pháp thí. Ái ngữ tối thắng, là khiến thiện nam tử thích nghe, nói pháp đúng lúc. Hành lợi tối thắng là đối với người không có tín khiến có tín, xác lập trên tín; đối với người hoc giới thì xác lập bằng tịnh giới; đối với người bỏn sẻn thì bằng bố thí; đối với người ác trí huệ thì bằng chánh trí mà xác lập. Đồng lợi [17] tối thắng là, nếu A-la-hán thì trao cho người quả A-la-hán. A-na-hàm thì trao cho người quả A-na-hàm. Tư-đà-hàm thì trao cho người quả Tư-đà-hàm. Tu-đà-hoàn thì trao cho người quả Tu-đà-hoàn. Người tịnh giới thì trao người khác bằng tịnh giới.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 637. NHIẾP [18]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Như trên đã nói, nhưng có một vài sai biệt:

“Nếu như có pháp nào để nhiếp thủ đại chúng thì tất cả đều ở trong bốn nhiếp sự. Hoặc một nhiếp thủ là bố thí, hoặc một nhiếp thủ là ái ngữ, hoặc một nhiếp thủ là hành lợi, hoặc một nhiếp thủ là đồng lợi. Ở trong thời quá khứ, những pháp nào đã nhiếp thủ đại chúng trong thời quá khứ cũng không ngoài bốn nhiếp sự. Những pháp nào sẽ nhiếp thủ đại chúng trong thời vị lai cũng không ngoài bốn nhiếp sự. Hoặc một pháp nhiếp thủ là bố thí, hoặc một pháp nhiếp thủ là ái ngữ, hoặc một pháp nhiếp thủ là hành lợi, hoặc một pháp nhiếp thủ là đồng lợi.”

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Bố thí cùng ái ngữ,

Hoặc hành vi hành lợi,

Đồng lợi các hành vi,

Mỗi tùy chỗ thích hợp.

Nhờ đây nhiếp thế gian,

Như xe lăn nhờ gang. [19]

Đời không bốn nhiếp sự,

Quên ơn mẹ nuôi con.

Cũng không tôn trọng cha,

Không khiêm tốn phụng sự.

Vì có bốn nhiếp sự,

Và tùy thuân pháp này.

Cho nên có Đại sĩ,

Đức trùm cả thế gian. [20]

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 638. TỨ LỰC (2) [21]

 [185b] Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có bốn lực. Những gì là bốn? Đó là lực giác, lực tinh tấn, lực vô tội, lực nhiếp, như trên đã nói. Nếu Tỳ-kheo nào thành tựu được bốn lực này, tránh xa được năm sự sợ hãi. Những gì là năm? Sợ không sống, sợ tiếng xấu, sợ giữa đám đông, sợ chết, sợ đường dữ, đó gọi là năm sự sợ hãi.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 639. TỨ LỰC (3) [22]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Như trên đã nói, nhưng có một vài sai biệt:

“Thánh đệ tử thành tựu bốn lực này, phải học như vầy: ‘Ta chẳng sợ không sống. Vì lý do gì mà ta phải sợ không sống? Nếu ai mà tạo hành vi bất tịnh bởi thân, hành vi bất tịnh bởi miệng, hành vi bất tịnh bởi ý, làm các việc tà tham, bất tín, biếng nhác, không tinh tấn, mất niệm, không định, ác tuệ, keo lẫn không nhiếp thủ; kẻ đó đáng sợ không sống. Ta có bốn lực, đó là giác lực, tinh tấn lực, vô tội lực, nhiếp lực. Vì đã thành tựu bốn lực này, vaayj chẳng nên sợ. Như sợ không sống, cũng vậy sợ tiếng xấu, sợ ở giữa đám đông, sợ chết, sợ đướng ác cũng nói như trên..”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 640. TỨ LỰC (4)  [23]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có bốn lực, đó là giác lực, tinh tấn lực, vô tội lực, nhiếp lực. Giác lực là thế nào?Đó là tuệ: đại tuê, thâm tuệ, nan thắng tuệ; đó gọi là giác lực. Tinh tấn lực là thế nào? Xa lìa pháp bất thiện, tư duy bất thiện; [24] pháp đen, tư duy đen; pháp có tội, tư duy có tội, pháp không nên thân cận, tư duy không nên thân cận. Sau khi tránh xa các pháp này rồi, nếu đối với các pháp thiện, tư duy thiện; pháp trắng, tư duy trắng, pháp vô tội, tư duy vô tội, pháp nên thân cận, tư duy nên thân cận, những pháp như vậy mà tu tập, tăng thượng tinh cần, nỗ lực phương tiện, kham năng, chánh niệm, chánh trí; đó gọi là tinh tấn lực.”

Vô tội lực, nhiếp lực như kinh trên đã nói.

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 641. NGŨ LỰC [25]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ.  [185c] Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có năm lực. Những gì là năm? Đó là tín lực, tinh tấn lự, niệm lực, định lực, tuệ lực.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 642. NGŨ LỰC ĐƯƠNG THÀNH TỰU [26]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Như trên đã nói, nhưng có một vài sai biệt:

“Các Tỳ-kheo nên học như vầy: ‘Ta nên nổ lực tinh tấn, thành tựu tín lực, tinh tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 643. ĐƯƠNG TRI NGŨ LỰC [27]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Như trên đã nói, nhưng có một vài sai biệt:

“Tín lực kia, nên biết, đó là bốn bất hoại tín. Tinh tấn lực, đó là bốn chánh đoạn,. Niệm lực là bốn niệm xứ. Định lực là bốn thiền. Tuệ lực là bốn thành đế.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 644. ĐƯƠNG HỌC NGŨ LỰC [28]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Như trên đã nói, nhưng có một vài sai biệt:

“Cho nên, các Tỳ-kheo nên học như vầy: Ta nên thành tựu tín lực, tinh tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực.’”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 645. NGŨ HỌC LỰC [29]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có năm học lực, Những gì là năm? Tín lực là học lực, [30] tinh tấn lực là học lực, tàm lự là học lực, quý lực là học lực, tuệ lực là học lực.”  [31]

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 646. ĐƯƠNG THÀNH HỌC LỰC [32]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Như trên đã nói, nhưng có một vài sai biệt:

“Các Tỳ-kheo nên học như vầy: Ta nên thành tựu tín lực là học lực; [33] nên thành tựu tinh tấn lực là học lực; nên thành tựu tàm lực là học lực; nên thành tựu quý lực là học lực; nên thành tựu tuệ lực là học lực.”

Sau khi Phật nói  [186a] kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 647. QUẢNG THUYẾT HỌC LỰC [34]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Như trên đã nói, nhưng có một vài sai biệt:

“Tín lực là học lực, là thế nào? Tỳ-kheo khéo thâm nhập tín tâm đối với Như Lai, gốc rễ bền chắc mà các Sa-môn, Bà-la-môn khác, chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, cùng đồng pháp khác không thể phá hoại; đó gọi là căn Tín.

“Tinh tấn lực là học lực, là thế nào? Là bốn chánh đoạn, như đã nói đầy đủ ở trước.

“Tàm lực là học lực, là thế nào? Là hổ thẹn, xấu hổ đối với pháp ác, bất thiện các số phiền não đã khởi, sẽ phải chịu các quả báo khổ bức bách của sanh, lão bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não ở trong đời vị lai. Đó gọi là tàm lực là học lực.

“Quý lực là học lực, là thế nào? Là lấy làm thẹn các điều đáng thẹn, tự thẹn về các pháp ác, bất thiện của các tư duy phiền não đã khởi, sẽ phải chịu các quả báo khổ bức bách của sanh, lão bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não ở trong đời vị lai. Đó gọi là quý lực là học lực.

“Tuệ lực là học lực, là thế nào? Thánh đệ tử trụ trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sự sinh diệt của thế gian, về sự xuất ly, yểm ly của Thánh Hiền, về sự bằng quyết trạch [35] mà chân chánh diệt tận khổ. Đó gọi là tuệ lực là học lực.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 648. ĐƯƠNG THÀNH HỌC LỰC [36]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Như trên đã nói, nhưng có một vài sai biệt:

“Cho nên các Tỳ-kheo phải học như vầy: Ta sẽ thành tựu tín lực là học lực, tinh tấn lực, tàm lực, quý lực, tuệ lực là học lực.’”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 649. BẠCH PHÁP [37]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu  [186b] Tỳ-kheo nào đối với pháp thiện mà thay đổi hoặc thối thất, hay không trụ lâu, Tỳ-kheo khác nên dùng năm thứ bạch pháp đến quở trách họ. Những gì là năm? Bảo rằng: ‘Ông không có tín thâm nhập trong các pháp thiện. Nếu y trên tín thì có thể xa lìa được pháp bất thiện, tu các pháp thiện. Ông không tinh tấn, không hổ không thẹn; không tuệ thâm nhập pháp thiện. Nếu y trên tuệ, có thể xa lìa các pháp bất thiện, tu các pháp thiện. Nếu Tỳ-kheo nào đối với Chánh pháp mà không đổi thay, không thối thất, trụ lâu, Tỳ-kheo khác nên dùng năm thứ bạch pháp đến chúc mừng. Những gì là năm? Có chính tín thâm nhập pháp. Nếu y trên tín, xa lìa được pháp bất thiện, các pháp thiện. Có tinh tấn, có tàm, có quý, có tuệ thâm nhập. Nếu người nào y cứ vào tuệ, xa lìa được pháp bất thiện, tu các pháp thiện.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 650. BẠCH PHÁP(2) [38]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu Tỳ-kheo nào hoàn giới, thối thất giới, Tỳ-kheo khác nên dùng năm thứ bạch pháp đến quở trách. Những gì là năm? Hoặc Tỳ-kheo không có tín đối với pháp thiện. Nếu y trên tín, tránh xa pháp bất thiện, tu các pháp thiện. Hoặc không có tinh tấn, tàm, quý, và tuệ thâm nhập pháp thiện. Nếu y trên tuệ, xa lìa pháp bất thiện, tu các pháp thiện.

“Nếu có Tỳ-kheo suốt đời thanh tịnh thuần nhất, phạm hạnh thanh bạch, Tỳ-kheo khác nên dùng năm thứ bạch pháp đến an ủi, khuyến khích, như trên đã nói.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 651. BẤT THIỆN PHÁP [39]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu có Tỳ-kheo nào, hoặc không muốn sanh ra pháp ác bất thiện; Tỳ kheo ấy hãy có  tín tâm nơi pháp thiện. Hoặc tín bị thối giảm, an trú bất tín lâu dài, và các pháp bất thiện lại sanh,… cho đến nếu muốn cho các pháp ác bất thiện không còn sanh; Tỳ kheo ấy hãy có tinh tấn, tàm, quý, tuệ. Nếu mà tinh tấn, tàm, quý, tuệ lực bị thối giảm, trụ lâu với ác tuệ, pháp ác bất thiện sẽ sanh ra. Nếu Tỳ-kheo nào y trên tín, Tỳ kheo ấy sẽ xa lìa được pháp bất thiện, tu các pháp thiện. Người nào y cứ vào tinh tấn, tàm, quý, tuệ, người ấy lìa được pháp ác bất thiện, và tu các pháp thiện.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 652. THẬP LỰC [40]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu Tỳ-kheo nào đối với sắc sanh tâm yêm ly, ly dục, diệt tận, không sanh khởi, giải thoát; đó gọi là A-la-ha Tam-miệu-tam Phật-đà. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng nói như vậy. Lại, nếu Tỳ-kheo  [186c] nào đối với sắc sanh tâm yểm ly, ly dục không sanh khởi, giải thoát; đó gọi là A-la-hán tuệ giải thoát. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng nói như vậy.

“Này các Tỳ-kheo, giữa Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác và A-la-hán tuệ giải thoát, có những gì sai khác?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc của pháp, là mắt của pháp, là nơi y cứ của pháp, xin vì chúng con mà nói. Các Tỳ-kheo sau khi nghe xong sẽ lãnh thọ, phụng hành.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Hãy lằng nghe và suy nghĩ kỹ! Ta sẽ vì các ngươi mà nói. Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác đối với pháp trước kia chưa nghe, có thể tự giác tri, ngay trong đời hiện tại tự thân chứng ngộ, thành Chánh giác, đối với đời vị lai thì có thể giảng nói Chánh pháp, giác ngộ các Thanh văn; tức là, bốn niệm xứ, bốn chánh đoạn, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám chi Thánh đạo. Đó gọi là Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác. Đối với pháp chưa chứng đắc thì có thể sẽ chứng đắc; phạm hạnh chưa chế có thể chế; có thể khéo biết đạo, khéo nói đạo, vì chúng sanh mà dẫn đường. Sau đó khiến Thanh văn thành tựu tùy thuận pháp, tùy thuận đạo, vui thích vâng lời giáo giới, giáo thọ của Đại Sư, nên khéo thâm nhập Chánh pháp. Đó gọi là những sự sai khác giữa Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác và A-la-hán tuệ giải thoát.

“Lại nữa, có năm học lực, mười lực Như Lai.

“Những gì là học lực? Đó là tín lực, tinh tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực.

“Những gì là mười lực của Như Lai? Như Lai biết như thật về xứ, phi xứ, đó gọi là lực thứ nhất của Như Lai. NếU Thành tựu lực này, Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác đạt được trí tối thắng xứ như Phật quá khứ, có thể chuyển Phạm luân, ở giữa đại chúng, rống lên tiếng rống sư tử.

“Lại nữa, Như Lai biết như thật về nguyên nhân, trường hợp, báo ứng của pháp thọ bởi nghiệp [41] quá khứ, vị lai, hiện tại; đó gọi là lực thứ hai của Như Lai. Thành tự được lực này, Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác đạt được trí tối thắng xứ như Phật quá khứ, có thể chuyển Phạm luân, ở giữa đại chúng rống lên tiếng rống sư tử.

“Lại nữa, Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác biết như thật về nhiễm ác, thanh tịnh, xứ tịnh, [42] của các thiền, giải thoát, tam muội, chánh thọ, đó gọi là lực thứ ba của Như Lai. Thành tựu được lực này, Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác đạt được trí trí tối thắng xứ như Phật quá khứ, có thể chuyển Phạm luân, ở giữa đại chúng rống lên tiếng rống sư tử.

“Lại nữa,  [187a] Như Lai biết như thật những sai biệt căn tánh khác nhau của tất cả các loài chúng sanh; đó gọi là lực thứ tư của Như Lai. Thành tự được lực này Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác đạt được trí tối thắng xứ như Phật quá khứ, có thể chuyển Phạm luân, ở giữa đại chúng rống lên tiếng rống sư tử.

“Lại nữa, Như Lai biết như thật về tất cả mọi ý giải [43] của chúng sanh; đó gọi là lực thứ năm của Như Lai. NếU Thành tựu được lực này, Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác đạt được trí trí tối thắng xứ như Phật quá khứ, có thể chuyển Phạm luân, ở giữa đại chúng rống lên tiếng rống sư tử.

“Lại nữa, Như Lai biết như thật về tất cả các giới loại khác nhau của thế gian chúng sanh; đó gọi là lực thứ sáu của Như Lai. Thành tự được lực này Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác đạt được trí tối thắng xứ như Phật quá khứ, có thể chuyển Phạm luân, ở giữa đại chúng rống lên tiếng rống sư tử.

“Lại nữa, Như Lai biết như thật về tất cả chí xứ đạo, [44] đó gọi là lực thứ bảy của Như Lai. Thành tựu được lực này, Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác đạt được trí trí tối thắng xứ như Phật quá khứ, có thể chuyển Phạm luân, ở giữa đại chúng rống lên tiếng rống sư tử.

“Lại nữa, Như Lai biết như thật về túc mạng, nhớ những sự khác nhau trong đời sống, từ một đời cho đến trăm, nghìn đời, từ một kiếp cho đến trăm, nghìn kiếp; Ta bấy giờ sinh vào chủng tộc như vậy, dòng họ như vậy, tên như vậy, ăn như vậy, cảm giác khổ vui như vậy, tuổi thọ như vậy, sống lâu như vậy, mạng sống chấm dứt như vậy; ở chỗ kia Ta chết đi, ở chỗ này sinh ra, chỗ này sinh ra, chỗ kia chết đi, hành như vậy, nhân như vậy, phương như vậy; đó gọi là lực thứ tám của Như Lai. NếU Thành tự được lực này, Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác đạt được trí tối thắng xứ như Phật quá khứ, có thể chuyển Phạm luân, ở giữa đại chúng rống lên tiếng rống sư tử.

“Lại nữa, Như Lai bằng thiên nhãn hơn mắt người thường, thấy chúng sanh lúc sinh lúc chết, đẹp, xấu, thua, hơn, hướng về đường dữ, hướng về đường thiện, theo nghiệp mà thọ báo, tất cả biết như thật; chúng sanh này do nghiệp ác của thân thành tựu, do nghiệp ác của miệng, ý thành tựu, hủy báng Hiền Thánh, sẽ mắc nghiệp tà kiến, vì nhân duyên này, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ đọa vào đường dữ, sanh vào trong địa ngục; chúng sanh này, thân làm việc thiện, miệng, ý làm việc thiện, không hủy báng Hiền Thánh, sẽ lãnh nghiệp chánh kiến, vì nhân duyên này, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh về đường thiện cõi Trời; tất cả biết như thật; đó gọi là lực thứ chín của Như Lai. Thành tựu được lực này, Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác đạt được trí trí tối thắng xứ như Phật quá khứ, có thể chuyển Phạm luân, ở giữa đại chúng rống lên tiếng rống sư tử.

“Lại nữa, Như Lai các lậu đã dứt sạch, tâm giải thoát vô lậu, tuệ giải thoát, hiện tại tự chứng tri, thân tác  [187b] chứng, tự biết rằng, ‘Sự sinh của Ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sinh kiếp sau nữa.’ Đó gọi là lực thứ mười của Như Lai. Thành tự được lực này, Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác đạt được trí tối thắng xứ như Phật quá khứ, có thể chuyển Phạm luân, ở giữa đại chúng rống lên tiếng rống sư tử.

“Mười lực này chỉ có Như Lai mới thành tựu. Đó chính là những sự khác biệt giữa Như Lai và Thanh văn.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 653. NHŨ MẪU [45]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Thí như đứa trẻ, cha mẹ sanh ra rồi giao nó cho nhũ mẫu, tùy thời xoa bóp vỗ về, tùy thời tắm gội, tùy thời cho bú mớm, tùy thời trông chừng. Nếu người nhũ mẫu không cẩn thận, đứa trẻ hoặc bốc cỏ, bốc đất, hay các đồ vật dơ cho vào miệng nó. Lúc này nhũ mẫu liền bảo nó nhả ra, kịp thời loại ra thì tốt. Nếu đứa trẻ không thể tự mình nhả ra được, nhũ mẫu phải dùng tay trái giữ đầu nó, tay phải tìm cách móc vật nghẹn ra. Tuy lúc đó đứa trẻ bị đau đớn thật, nhưng nhũ mẫu vì muốn làm cho đứa trẻ an lạc lâu dài, nên phải khổ tâm tìm cách móc vật làm nghẹn ra.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu đứa trẻ lớn lên hiểu biết, phân biệt được rồi, nó có còn đem cỏ, đất, hay vật dơ bỏ vào trong miệng nữa không?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Không vậy, bạch Thế Tôn. Đứa trẻ khi đã lớn khôn, hiểu biết phân biệt được rồi, đối với các vật dơ còn không dùng chân chạm vào, huống chi là bỏ vào trong miệng.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Đứa trẻ lúc còn nhỏ, nhũ mẫu tùy thời săn sóc, trông chừng, và khi nó lớn lên đầy đủ trí tuệ rồi, nhũ mẫu buông xả, không cần theo dõi, vì nó đã trưởng thành, không tự buông lung nữa.

“Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, các Thanh văn mới học, trí tuệ chưa đầy đủ, Như Lai sẽ tùy thời đem giáo pháp truyền dạy mà trông nom. Những Thanh văn đã học lâu, trí tuệ sâu xa, kiên cố, Như Lai buông xả, không còn tùy thời ân cần truyền dạy, vì đã thành tựu được trí tuệ nên không còn buông lung nữa. Cho nên, Thanh văn có năm thứ học lực, còn Như Lai thì đã thành tựu mười trí lực, như trên đã nói đầy đủ.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 654. SƯ TỬ HỐNG [46]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Như Lai có sáu thứ lực. Thành tựu được sáu lực này, Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác đạt được trí tối thắng xứ như Phật quá khứ,  [187c] có thể chuyển Phạm luân, ở giữa đại chúng, rống lên tiếng rống sư tử. Đó là lực thứ nhất của Như Lai, biết như thật về xứ, phi xứ.

“Lại nữa, Như Lai biết như thật về sự thọ pháp bởi nghiêp [47] quá khứ, vị lai, và hiện tại. Như trên đã nói đầy đủ. Đó là lực thứ hai của Như Lai.

“Lại nữa, Như Lai biết như thật về thiền giải thoát, tam-muội, chánh thọ. Như trên đã nói đầy đủ. Đó gọi là lực thứ ba của Như Lai.

“Lại nữa, Như Lai biết như thật về những sự việc trong đời trước của thời quá khứ. Như trên đã nói đầy đủ. Đó gọi là lực thứ tư của Như Lai.

“Với thiên nhãn thanh tịnh của Như Lai vượt qua mắt người thường thấy các chúng sanh chết nơi này sinh ra nơi kia. Như trên đã nói đầy đủ. Đó gọi là lực thứ năm của Như Lai.

“Lại nữa, lậu kết của Như Lai đã diệt hết, tâm giải thoát vô lậu, tuệ giải thoát. Như trên đã nói đầy đủ… Cho đến ở giữa chúng, rống lên tiếng rống sư tử. Đó gọi là lực thứ sáu của Như Lai.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 655. SƯ TỬ HỐNG (2) [48]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Như trên đã nói, nhưng có một vài sai biệt:

“Nếu có người đến hỏi Ta về trí lực xứ, phi xứ của Như Lai, Ta như điều được sở tri, sở kiến, giác ngộ, thành Đẳng chánh giác, vì người kia mà nói về trí lực, xứ, phi xứ của Như Lai.

“Lại, hoặc có người đến hỏi về trí lực pháp thọ bởi nghiêp [49] của Như Lai, Ta như điều được sở tri, sở kiến, giác ngộ, thành Đẳng chánh giác, vì người kia mà nói về trí lực pháp thọ bơit nghiệp của Như Lai. Đó gọi là trí lực thứ hai của Như Lai.

“Hoặc có người đến hỏi về trí lực thiền định, giải thoát, tam-muội, chánh thọ của Như Lai, Ta như điều được sở tri, sở kiến, giác ngộ, thành Đẳng chánh giác, vì người kia mà nói hỏi về trí lực thiền định, giải thoát, tam-muội, chánh thọ của Như Lai.

“Hoặc có người đến hỏi về trí lực đời trước, Ta như điều được sở tri, sở kiến, giác ngộ, thành Đẳng chánh giác, vì người kia mà nói về đời trước của Như Lai.

“Hoặc có người lại đến hỏi về trí lực thiên nhãn của Như Lai, Ta như điều được sở tri, sở kiến, giác ngộ, thành Đẳng chánh giác, vì người kia mà nói về sở kiến thiên nhãn của Như Lai.

“Hoặc có người đến hỏi về trí lực lậu tận của Như Lai, Ta như điều được sở tri, sở kiến, giác ngộ, thành Đẳng chánh giác, vì người kia mà nói về trí lực lậu tận của Như Lai.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 656. THẤT LỰC [50]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có bảy lực. Những gì là bảy? Là tín lực, tinh tấn lực, tàm lực, quý lực, niệm lực định lực, [188a] tuệ lực. Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Tín lực, tinh tấn lực,

Tàm lực và quý lực;

Chánh niệm, định, tuệ lực,

Đó gọi là bảy lực.

Người thành tựu bảy lực,

Là dứt sạch hữu lậu.

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 657. ĐƯƠNG THÀNH THẤT LỰC [51]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có bảy lực như trên đã nói, nhưng có một vài sai biệt:

“Cho nên Tỳ-kheo, phải học như vầy: ‘ Ta sẽ thành tựu tín lực. Cũng vậy, tinh tấn lực, tàm lực, quý lực, niệm lực, định lực, tuệ lực cũng phải học.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 658. THẤT LỰC (2) [52]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có bảy lực, như trên đã nói, nhưng có một vài sai biệt:

Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Tín lực, tinh tấn lực,

Cùng nói tàm, quý lực;

Niệm lực, định, tuệ lực,

Đó gọi là bảy lực.

Người thành tựu bảy lực,

Chóng dứt các hữu lậu.

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 659. QUẢNG THUYẾT THẤT LỰC [53]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có bảy lực. Những gì là bảy? Là tín lực, tinh tấn lực, tàm lực, quý lực, niệm lực, định lực, tuệ lực.

“Tín lực là thế nào? Phát khởi tín tâm sâu xa, vững chắc đối với Như Lai, mà chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, cùng những kẻ đồng pháp khác không thể nào phá hoại được; đó gọi là tín lực.

“Tinh tấn lực là những gì? Là bốn chánh đoạn. Như trên đã nói đầy đủ.

“Tàm lực là thế nào? Là hổ thẹn về pháp ác bất thiện. Như trên đã nói.

“Quý lực là thế nào? Đối vời việc đáng thẹn nên thẹn, thẹn về những pháp ác bất thiện khởi lên. Như trên đã nói.

“Niệm lực là những gì? Là bốn niệm xứ. Như trên đã nói.

“Định lực là những gì? Là bốn thiền. Như trên đã nói.

“Tuệ lực là những gì? Là bốn Thánh đế. Như trên đã nói.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo  [188b] nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.

KINH 660. BÁT LỰC [54]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có tám lực. Tám lực là những gì? Lực của vương giả là sự tự tại; lực của đại thần là đoán sự; lực của người nữ là sự kết hận; [55] lực của trẻ con là khóc; lực của người ngu là sự khen chê; lực của người hiệt huệ là sự thẩm sát; lực của người xuất gia là sự nhẫn nhục; lực của người học rộng là sự tính toán.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 661. QUẢNG THUYẾT BÁT LỰC [56]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Như trên đã nói, nhưng có một vài sai biệt:

“Lực của vua tự tại, là oai lực của vua biểu hiện bằng sự tự tại. Lực của đại thần xử kiện, là lực của đại thần biểu hiện bằng cách xử kiện. Lực của người nữ kết hận, là lực của người nữ biểu hiện bằng kết hận. Lực của trẻ khóc, là lực của đứa trẻ biểu hiện bằng tiếng khóc. Lực của người ngu khen chê, là sự khen chê khi xúc sự theo pháp của của người ngu. Lực của trí tuệ thẩm sát, là sự thẩm sát thường thể hiện của người trí tuệ. Lực của người xuất gia nhẫn nhục, là sự nhẫn nhục mà người xuất gia luôn luôn thể hiện. Lực của người học rộng tính toán, là sự suy tư tính toán mà người học rộng luôn luôn thể.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 662. XÁ-LỢI-PHẤT VẤN [57]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất đi đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ sát chân, rồi ngồi xuống một bên, bạch Phật rằng:

“Tỳ-kheo lậu tận có bao nhiêu lực?”

Phật bảo Xa-lợi-phất:

“Tỳ-kheo lậu tận có tám lực. Những gì là tám? Tỳ-kheo lậu tận, tâm thuận hướng về sự viễn ly, chảy rót vào viễn ly, chuyển vần sâu vào sự viễn ly; tâm thuận hướng về sự thoát ly, chảy rót vào thoát ly, chuyển vần sâu vào sự viễn ly thoát ly; thuận hướng về Niết-bàn, chảy rót vào Niết-bàn, chuyển vần sâu vào Niết-bàn. Khi thấy năm dục thì như thấy hầm lửa; khi thấy rồi, đối với dục niệm, dục thọ, dục trước, tâm dứt khoát không trụ vào, tu bốn niệm xứ, bốn chánh đoạn, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám phần Thánh đạo.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 663. DỊ TỲ-KHEO VẤN [58]

Như kinh Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi, kinh Tỳ-kheo khác hỏi  [188c] Phật cũng vậy.

KINH 664. VẤN CHƯ TỲ-KHEO [59]

Kinh hỏi các Tỳ-kheo, cũng nói như trên.

KINH 665. CỬU LỰC [60]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có chín lực. Những gì là chín? Đó là tín lực, tinh tấn lực, tàm lực, quý lực, niệm lực, định lực, tuệ lực, tư trạch lực, tu lực.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 666. QUẢNG THUYẾT CỬU LỰC [61]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có chín lực. Những gì là chín? Đó là tín lực, tinh tấn lực, tàm lực, quý lực, niệm lực, định lực, tuệ lực, tư trạch lực, tu lực.

“Tín lực là thế nào? Như trên đã nói, phát khởi tin tâm chân chánh vững chắc sâu xa nơi Như Lai.

“Tinh tấn lực là những gì? Như trên đã nói, là bốn chánh đoạn.

“Tàm lực là thế nào? Như trên đã nói.

“Quý lực là thế nào? Như trên đã nói.

“Niệm lực là thế nào? Như trên đã nói, sống quán niệm thân trên thân.

“Định lực là thế nào? Là bốn thiền.

“Tuệ lực là thế nào? Là bốn Thánh đế.

“Tư trạch lực là thế nào? Đệ tử của bậc Thánh, hoặc ở nơi phòng vắng hay dưới gốc cây, cần phải học như vầy: ‘ Người có hành vi ác bởi thân, ngay trong hiện tại và, đời sau sẽ nhận lãnh quả báo ác.’ Như đã nói đầy đủ ở trên.

“Tu lực là thế nào? Là tu bốn niệm xứ. Như trước đã nói.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 667. THẬP LỰC [62]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có mười lực. Những gì là mười? Lực của vương giả là tự tại, lực của đại thần là đoán sự, lực của công xảo là máy móc, lực của giặc cướp là đao kiếm, lực của người nữ là kết hận, lực của trẻ con là khóc, lực của người ngu là sự khen chê, lực của người hiệt huệ là sự thẩm sát, lực của người xuất gia là sự nhẫn nhục, lực của người học rộng là sự tính toán”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 668. QUẢNG THUYẾT THẬP LỰC [63]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Như trên đã nói, nhưng có một vài sai biệt:

 [189a] “Lực của vua tự tại, là sự biểu hiện oai lực của vua bằng sự tự tại. Lực của đại thần xử kiện, là lực của đại thần biểu hiện bằng cách xử kiện. Lực của công xảo máy móc, là người chế tạo ra máy móc biểu hiện lực bằng công xảo của nó. Lực của giặc cướp đao kiếm, là bọn giặc cướp quyết biểu hiện lực của nó bằng đao kiếm. Lực của người nữ kết hận là lực của người nữ biểu hiện bằng kết hận. Lực của trẻ khóc, là lực của đứa trẻ biểu hiện bằng tiếng khóc. Lực của người ngu khen chê, là sự khen chê khi xúc sự theo pháp của của người ngu. Lực của trí tuệ thẩm sát, là sự thẩm sát thường thể hiện của người trí tuệ. Lực của người xuất gia nhẫn nhục, là sự nhẫn nhục mà người xuất gia luôn luôn thể hiện. Lực của người học rộng tính toán, là sự suy tư tính toán mà người học rộng luôn luôn thể hiện.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 669. NHƯ LAI LỰC [64]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có mười lực của Như Lai. Thành tựu lực này, Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác đạt được tối thắng xứ như Phật quá khứ, có thể chuyển Phạm luân, ở giữa đại chúng, rống tiếng rống sư tử. Những gì là mười? Như Lai biết như thật về xứ, phi xứ, đó gọi là lực thứ nhất,… cho đến lậutận, đã nói như trên.” [65]

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 670. NHƯ LAI LỰC [66]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

Như đã nói ở trên, nhưng có một vài sai biệt:

Nếu có người đến hỏi Ta về trí lực xứ, phi xứ của Như Lai, Ta như điều được sở tri, sở kiến, giác ngộ, thành đẳng chánh giác, vì người kia mà nói về trí lực, xứ, phi xứ của Như Lai.”

Như đã nói đầy đủ ở trên.” [67]

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 671. NHƯ LAI LỰC [68]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu có pháp nào mà được thắng giải, thân tác chứng, tất cả đều do trí vô úy của Như Lai phát sinh ra. Nếu Tỳ-kheo nào đến làm đệ tử của Ta, mà không nịnh hót, không giả ngụy, sinh tâm ngay thẳng; Ta sẽ nói pháp cho người đó, giáo giới truyền dạy. Buổi sáng Ta nói pháp cho, giáo giới, truyền dạy; đến lúc giữa trưa người ấy đạt đến chỗ thắng tiến. Nếu chiều tối Ta nói pháp cho người ấy, giáo giới truyền dạy; đến sáng sớm hôm sau người ấy đạt đến chỗ thắng tiến. Khi được truyền dạy như vậy rồi, người ấy sanh tâm ngay thẳng; thật thì biết thật, không thật thì biết không thật, trên thì biết là trên, không trên thì biết là không trên. Những điều nên biết, nên thấy, nên chứng đắc, nên thắng tri, tất cả đều được biết rõ. Trường hợp ấy có xảy ra. Đó gọi là năm lực của hữu học, và mười  [189b] lực của Như Lai.

“Những gì là năm lực của hữu học? Đó là tín lực, tinh tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực.

“Mười lực của Như Lai. Những gì là mười? Biết như thật xứ phi xứ. [69] Như đã nói mười lực đầy đủ ở trên. Nếu có người đến hỏi Ta về trí lực xứ, phi xứ của Như Lai, Ta như điều được sở tri, sở kiến, giác ngộ, thành Đẳng chánh giác, vì người kia mà nói về trí lực, xứ, phi xứ của Như Lai… cho đến trí lực lậu tận, cũng nói như vậy.

“Này các Tỳ-kheo, trí lực xứ phi xứ đó Ta nói là định chứ chẳng phải không định,… cho đến trí lự lậu tận, ta nói là định, chẳng phải không định. Đinh là chánh đạo. Phi định là tà đạo.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

 


 [1] Tụng v Đạo phẩm 3 Tương ưng lực, gồm các kinh Đại chánh 661-730 (phần giữa quyển 26) Ấn Thuận Hội biên, Tung 4 Đạo phẩm, “11 Tương ưng lực.”  Tương đuơpng Pāli, S 50 Balasaṃyutta.

 [2] Hai sức mạnh Pāli, A.2.2.1 Balāni.

 [3] Nguyên Hán: số lực 數力 Pāli: paṭisaṅkhānabala, sức mạnh của sự giản trạch, tức năng lực quán sát và phân tích của huệ Xem Câu-xá 1 (tr 1b) Bản Hán hiểu theo ngữ nguyên saṅkhā, con số.

 [4] Tu lực 修力 Pāli, bhāvanābala.

 [5] Ngã Đại sư diệc đương hối 我大師亦當悔

 [6] Đại chánh, kinh 662.

 [7] Đại chánh, kinh 663.

 [8] Tứ đạo 四道, tức bốn thông hành.

 [9] Tứ pháp cú 四法句, tức bốn pháp tích

 [10] Ba loại sức mạnh Đại chánh, kinh 664.

 [11] Đại chánh, kinh 665.

 [12] Đại chánh, kinh 666.

 [13] Tham chiếu Pāli, A.4.152 Balāni.

 [14] A ii 142: paṭisaṅkhānabalaṃ (trạch lực), bhāvanābalaṃ (tu lực), anavajjabalaṃ (vô tội lực), saṅgahabalaṃ (nhiếp lực).

 [15] Tập cận 習近 Pāli: sevitabba.

 [16] Đại chánh, kinh 668.

 [17] Đồng lợi 同利, ta quen hiểu là đồng sự Pāli: samānattatā, đồng ngã, nâng người lên ngang mình Hán đọc là samānattha, đồng lợi, lợi bình đẳng Theo giải thích của kinh, nên hiểu là đồng ngã: samānattatā.

 [18] Pāli, A 4.32 Saṅgaha.

 [19] Hán: công 釭, ống gang trong bánh xe Pāli: ete kho saṅgahā loke, rathhassāṇīva yāyato, những nhiếp sự này ở trong đời, như cái chốt trục xe khiến xe lăn.

 [20] Pāli: yasmā ca saṅgaha ete samavekkhanti paṇḍitā, tasmā mahattaṃ papponti pāsaṃsā ca bhavanti, bậc trí do quán sát các nhiếp sự này mà đạt được sự vĩ đại và có danh thơm.

 [21] Đại chánh, kinh 670 Pāli, A.4 153 Paññā.

 [22] Đại chánh, kinh 671.

 [23] Đại chánh, kinh 672.

 [24] Bất thiện số 不善數, đồng nghĩa bất thiện tư duy.

 [25] Đại chánh, kinh 673 Pāli, S.50.1 Gaṅgāpeyyāla; Cf A.5.13 Saṅkhīta

 [26] Đại chánh, kinh 674.

 [27] Đại chánh, kinh 675 Pāli, S.48.8 Daṭṭhabbaṃ; A.5.14 Vitthata, 5.15 Daṭṭhabba.

 [28] Đại chánh, kinh 676.

 [29] Đại chánh, kinh 677 Cf A.5.1 Saṅkhita.

 [30] Học lực 學力, năng lực của hữu học Pāli: sekhabala Xem cht 31 & 33 dưới.

 [31] Năm lực theo Pāli ibid.: saddhā, tín, hirī, tàm, ottapa, quý, vīriya, tinh tấn, paññā, huệ.

 [32] Đại chánh, kinh 678

 [33] Pāli: saddhābalena samannāgatā bhavissāma sekhabalena, chúng tôi sẽ thành tưu sức manh của tín, là sức mạnh của hữu học.

 [34] Đại chánh, kinh 679 Pāli, A.5.2 Vitthāta.

 [35] Hán: quyết định 決定 Pāli: nibbedhikāya.

 [36] Đại chánh, kinh 680.

 [37] Đại chánh, kinh 681 Pāli, A.5.5 Sikhā.

 [38] Đại chánh, kinh 682 Pāli, A.5.5 Sikkhā.

 [39] Đại chánh, kinh 683.

 [40] Đại chánh, kinh 684 Cf M.12 Mahāsīhanāda-sutta; A.10.21 Sīha Hán: No 125(46.4)

 [41] Nghiệp pháp thọ nhân sự báo 業法受因事報 Pāli M i 70): kammasamādānānaṃ ṭhānaso hetuso vipākaṃ, nhân và duyên báo ứng của sự thọ nghiệp.

 [42] Pāli ibid.: (...) samāpattīnaṃ saṅkilesaṃ vodānaṃ vuṭṭhānaṃ, (biết) sự tạp nhiễm, thanh tịnh và xuất ly của các (...) chánh thọ (hay đẳng trì).

 [43] Chủng chủng ý giải 種種意解 Pāli: nānādhimutti, mọi xu hướng (năng lực nhận thức) dị biệt.

 [44] Nhất thiết chí đạo xứ 一切至處道, biến thú hành trí lực Pāli: sabbatthagāminiṃ paṭipadaṃ, (biết) con đường dẫn đến tất cả mục đích.

 [45] Đại chánh, kinh 685.

 [46] Đại chánh, kinh 686  A.6.64 Sīhanāda.

 [47]Hán: tâm lạc pháp thọ 心樂法受 Chính xác là nghiệp pháp thọ (Pāli: kammasamādāna) nhưng chép nhầm là lạc pháp thọ Xem kinh Đại chánh 684.

 [48] Đại chánh, kinh 687 Pāli, A.6.64  Sīhanāda.

 [49] Tự dĩ lạc thọ 自以樂受; trí lực nhậnthức nghiệp báo sai biệt, như trong kinh Đại chánh 864 trên.

 [50] Đại chánh, kinh 688 A.7.3- 4  Bala; 5 Dhana.

 [51] Đại chánh, kinh 889.

 [52] Đại chánh, kinh 690.

 [53] Đại chánh, kinh 691.

 [54] Đại chánh, kinh 692 Tham chiếu, Hán: No 125(38.11); Pāli: A.8.27 Bala.

 [55] Kết hận 結恨 Pāli: kodhabala, sức mạnh của sự giận hờn.

 [56] Đại chánh, kinh 693 Cf No 125(38.11); A.8.27 Bala.

 [57] Đại chánh, kinh 694 Pāli, A.8.28 Bala.

 [58] Đại chánh, kinh 695.

 [59] Đại chánh, kinh 696.

 [60] Đại chánh, kinh 697 Cf A.8.28  Bala.

 [61] Đại chánh, kinh 698..

 [62] Đại chánh, kinh 699.

 [63] Đại chánh, kinh 670..

 [64] Đại chánh, kinh 701 Cf A.10.21 Sīha Xem kinh Đại chánh 684.

 [65] Như kinh Đại chánh 684.

 [66] Đại chánh, kinh 702.

 [67] Như kinh Đại chánh 687

 [68] Đại chánh, kinh 703.

 [69] Trong nguyên bản: như thật tri phi xứ: có sự chép nhầm.