28. Tương Ưng bệnh, Kinh 925-942

28. TƯƠNG ƯNG BỆNH [36]

KINH 925. BẠT-CA-LÊ [37]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ, có Tôn giả Bạt-ca-lê [38] ở tại tinh xá Kim-sư [39] trong thành Vương Xá, bị khốn khổ vì bệnh, được Tôn giả Phú-lân-ni chăm sóc cúng dường. Lúc đó Bạt-ca-lê nói với Phú-lân-ni:

“Thầy có thể đến chỗ Thế Tôn, vì tôi cúi đầu lễ sát chân Thề tôn, thưa hỏi Thế Tôn có ít bệnh, ít não, đi ở có nhẹ nhàng, thuận lợi, trú an lạc chăng? Và bạch với Thê Tôn: ‘Bạt-lê-ca ở tinh xá Kim-sư bị khốn nặng vì bệnh ngặt, đang nằm liệt giường, muốn gặp Thế Tôn nhưng khốn khổ vì bệnh, khí lực sút kém, không tự đến được. Cúi xin Thế Tôn vì lòng thương xót mà đến tinh xá Kim-sư này.’”

Phú-lân-ni nhận lời Bạt-ca-lê, đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ sát chân, rồi đứng qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, Tôn giả Bạt-ca-lê cúi đầu đảnh lễ sát chân Thế Tôn, thưa hỏi Thế Tôn có ít bệnh, ít não, đi ở có nhẹ nhàng, thuận lợi, trú an lạc chăng?”

Thế Tôn đáp:

“Mong cho được an lạc.”

Tôn giả Phú-lân-ni lại thưa:

“Bạch Thế Tôn, Tôn giả Bạt-ca-lê ở tinh xá Kim-sư đau nặng nằm liệt giường, muốn gặp Thế Tôn nhưng sức yếu không thể tự đi đến chỗ Thế Tôn được. Lành thay! Cúi xin Thế Tôn thương xót, thỉnh Thế Tôn đến tinh xá Kim-sư.”

Thế Tôn im lặng nhận lời. Tôn giả Phú-lân-ni biết Thế Tôn đã nhận lời, liền đảnh lễ lui ra.

Vào buổi chiều sau từ thiền tinh giác, Thế Tôn đến tinh xá Kim-sư, vào phòng Tôn giả Bạt-ca-lê. Tôn giả Bạt-ca-lê từ xa trông thấy Phật liền muốn gượng dậy.

Phật bảo Bạt-ca-lê:

“Thôi, chớ có ngồi dậy.”

Thế Tôn ngồi xuống giường khác, nói với Bạt-ca-lê:

“Tâm ngươi có thể chịu nổi cái khổ của bệnh  này không? Thân ngươi bị tật bệnh tăng hay giảm?”

Bạt-ca-lê bạch Phật:

Nói đầy đủ như kinh Tỳ-kheo Xoa-ma ở trước. [40]

“Bạch Thế Tôn, thân con đau khổ quá chịu không nổi, muốn tìm dao tự sát, không thích sống khổ.”

Phật nói với [364c] Bạt-ca-lê: [41]

“Nay Ta hỏi ngươi, tuỳ ý mà trả lời Ta. Thế nào Bạt-ca-lê, sắc là thường chăng, hay là phi thường chăng?”

Bạt-ca-lê đáp:

“Bạch Thế Tôn, vô thường.

Lại hỏi:

“Vô thường là khổ chăng?

Đáp:

“Bạch Thế Tôn, là khổ.

Lại hỏi:

“Này Bạt-ca-lê, nếu vô thường, là khổ, thì đó là pháp biến dịch, đối với chúng há có đáng ham muốn chăng?”

Bạt-ca-lê bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, không đáng.”

Thọ, tưởng, hành, thức cũng nói như vậy.

Phật bảo Bạt-ca-lê:

“Nếu đối với thân kia mà không có tham, không có dục, thì mạng chung an lành, đời sau [42] cũng an lành.”

Bấy giờ Thế Tôn vì Bạt-ca-lê nói nhiều pháp. Sau khi khai thị, chỉ giáo, soi sáng, làm cho hoan hỷ xong, Thế Tôn rời chỗ ngồi đứng dậy ra về.

Ngay đêm hôm ấy, Tôn giả bạt-ca-lê tư duy về giải thoát, muốn cầm đao tự sát, không thích sống lâu nữa. Bấy giờ vào cuối đêm, có hai vị trời thân hình rất đoan chánh, đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu lễ sát chân, đứng lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, Tôn giả Bạt-ca-lê bị khốn khổ vì bệnh, tư duy về giải thoát, muốn cầm dao tự sát, không thích sống lâu.”

Vị trời thứ hai thưa:

“Tôn giả Bạt-ca-lê kia sẽ được giải thoát với thiện giải thoát [43].”

Thưa những lời này xong cả hai cúi đầu lễ sát chân Phật, rồi biến mất.

Sau khi đêm đã qua, vào lúc sáng sớm, Thế Tôn trải toà ngồi kiết-già trước đại chúng, nói với các tỳ-kheo:

“Đêm qua có hai Thiên tử hình thể đoan chánh, đến chỗ Ta, cúi đầu đảnh lễ, rồi đứng qua một bên thưa: ‘Tôn giả Bạt-ca-lê ở tinh xá Kim-sư bị  khốn khổ vì tật, nên tư duy về giải thoát, muốn cầm dao tự sát, không thích sống lâu.’ Vị Trời thứ hai thưa: ‘Tôn giả bạt-ca-lê sẽ được giải thoát với thiện giải thoát.’ Thưa những lời này xong, cúi đầu làm lễ rồi biến mất.”

Bấy giờ Thế Tôn bảo một Tỳ-kheo:

“Ngươi hãy đến chỗ Tỳ-kheo Bạt-ca-lê nói với Bạt-ca-lê rằng, đêm qua có hai vị trời đến chỗ Ta cúi đầu đảnh lễ, rồi đứng lui qua một bên thưa Ta rằng: ‘Tôn giả Bạt-ca-lê bị khốn nặng vì bệnh tật, nên tư duy đến sự giải thoát, muốn cầm dao tự sát, không thích sống lâu nữa.’Vị Trời thứ hai thưa: ‘Tôn giả bạt-ca-lê sẽ được giải thoát với thiện giải thoát.’ Thưa những lời này xong cả hai liền biến mất. Đó là những lời của chư Thiên, Như Lai cũng nói lại với ngươi là, ngươi đối với thân này mà không khởi tham dục, thì mạng chung an lành, đời sau cũng sẽ an lành.”

Bấy giờ, Tỳ-kheo kia vâng lời Thế Tôn, rồi đến phòng Bạt-ca-lê, tinh xá Kim-sư. [347a] Lúc ấy Bạt-ca-lê nói với  người nuôi bệnh rằng:

“Các vị hãy mang giường dây tới và khiêng giùm thân tôi ra đặt ngoài cổng tinh xá. Tôi muốn cầm dao tự sát, không thích sống lâu.”

Lúc đó có nhiều Tỳ-kheo ra khỏi phòng đang đi kinh hành nơi đất trống. Vị Tỳ-kheo vâng lệnh Phật đến chỗ các Tỳ-kheo, hỏi các Tỳ-kheo rằng:

“Thưa chư Tôn giả, Tỳ-kheo Bạt-ca-lê ở chỗ nào?”

Các Tỳ-kheo đáp:

“Tỳ-kheo Bạt-ca-lê bảo những người nuôi bệnh khiêng giường dây đưa ra ngoài tinh xá. Thầy ấy muốn cầm đao tự sát, không thích sống lâu.”

Vị Tỳ-kheo được Phật sai, liền đến chỗ Bạt-ca-lê. Tỳ-kheo Bạt-ca-lê từ xa trông thấy Tỳ-kheo được sai đến, nói với những người nuôi bệnh:

“Hạ giường dây xuống đất. Tỳ-kheo kia đang vộ vã đến đây. Hình như được Thế Thôn sai đến.”

Những người nuôi bệnh liền hạ giường dây đặt xuống đất. Lúc ấy, Tỳ-kheo được sai kia nói với Bạt-ca-lê:

“Thế Tôn có lời dạy, và các vị Thiên tử cũng có lời nói.”

Bấy giờ, Bạt-ca-lê nói với những người nuôi bệnh:

“Đỡ tôi xuống đất. Tôi không thể ở trên giường mà nhận lãnh lời dạy Thế Tôn, và những lời nói của chư Thiện.”

Những người nuôi bệnh liền đỡ Bạt-ca-lê xuống đất. Khi ấy, Bạt-ca-lê nói:

“Thầy có thể truyền lại lời dạy của Thế Tôn và chư Thiên”

Tỳ-kheo sứ giả nói:

“Bạt-ca-lê,   bảo thầy: ‘Đêm qua có hai vị Thiên tử đến nói với Ta là Tỳ-kheo Bạt-ca-lê bị khốn nặng vì bệnh tật nên tư duy đến giải thoát, muốn cầm dao tự sát, không muốn sống lâu.’ Vị trời thứ hai thì thưa: ‘Tỳ-kheo Bạt-ca-lê sẽ được giải thoát với thiện giải thoát.’ Nói những lời này xong cả hai liền biến mất. Thế Tôn cũng ký thuyết, thầy sẽ mạng chung an lành, đời sau [44] cũng an lành.”

Bạt-ca-lê thưa:

“Tôn giả,   biết rõ điều cần biết, thấy rõ điều cần thấy. Hai vị thiên kia cũng biết rõ điều cần biết, thấy rõ điều cần thấy. Nhưng hôm nay, tôi đối với sắc thân, nó là vô thường, quyết định không còn nghi ngờ; vô thường là khổ, quyết định không còn nghi ngờ; vô thường, khổ là pháp biến dịch, đối với chúng không còn tham dục, đã quyết định không còn nghi ngờ. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Nhưng hôm nay tôi bị khổ đau vì bệnh tật  nên vẫn còn tùy thuộc vào thân, muốm dùng dao tự sát, không thích sống lâu.” Nói rồi liền cầm dao tự sát. [45]

Vị Tỳ-kheo sứ giả cúng dường thi thể Bạt-ca-lê xong, trở về chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân, ngồi xuống một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con đã đem lời dạy của Thế Tôn truyền lại cho Tôn giả Bạt-ca-lê. Tôn giả nói rằng: ‘  biết rõ điều cần biết, [347b] thấy rõ điều cần thấy. Hai vị thiên kia cũng biết rõ điều cần biết, thấy rõ điều cần thấy’ … nói đầy đủ cho đến cầm dao tự sát.”

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo cùng Ngài đi đến tinh xá Kim-sư, chỗ thi thể của Bạt-ca-lê; thấy thi thể Bạt-ca-lê có đám màu chập chờn. [46] Thấy thế rôi, Thế Tôn liền bảo các Tỳ-kheo:

“Các ngươi có thấy khoảng đất quanh thi thể Bạt-ca-lê có đám màu chập chờn không?”

Các tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, đã thấy.”

Phật lại bảo các Tỳ-kheo:

“Các ngươi có thấy một bóng mờ đi vòng quanh thi thể Bạt-ca-lê không?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, đã thấy.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Đó là hình ảnh của Ác ma đi quanh để tìm thức thần của thiện nam Bạt-ca-lê sẽ sinh về chỗ nào?”

Phật lại bảo các Tỳ-kheo:

“Thiện nam tử Bạt-ca-lê sau khi dùng dao tự sát, thức thần không trụ vào đâu cả.” [47]

Bấy giờ, Thế Tôn nói thọ ký đệ nhất cho Bạt-ca-lê. [48]

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 926. XIỂN-ĐÀ [49]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ, có Tôn giả Xiển-đà [50] ở trong rừng Hảo y Am-la, tại tụ lạc Na-la, bị nguy khốn vì tật bệnh. Khi ấy Tôn giả Xá-lợi-phất nghe Tôn giả Xiển-đà ở trong rừng Hảo y Am-la, tại tụ lạc Na-la, đang bị nguy khốn vì bệnh tật, bèn nói với Tôn giả Ma-ha Câu-hy-la:

“Tôn giả biết không? Tỳ-kheo Xiển-đà ở trong rừng Hảo y Am-la, tại tụ lạc Na-la, đang bị nguy khốn vì bệnh tật. Chúng ta hãy cùng đến đó thăm.

Ma-ha câu-hy-la im lặng nhận lời. Rồi Tôn giả Xá-lợi-phất cùng Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la đi đến phòng Tôn giả Xiển-đà, trong rừng Hảo y Am-la tại tụ lạc Na-la. Tôn giả Xiển-đà từ xa trông thấy Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la, muốn ngồi dậy khỏi giường.”

Tôn giả Xá-lợi-phất bảo Tôn giả Xiển-đà:

“Thầy chớ ngồi dậy.”

Tôn giả Xá-lợi-phất, Tôn giả Ma-ha Câu-hi-la ngồi xuống nơi giường khác, hỏi Tôn giả Xiển-đà:

“Thế nào Tôn giả Xiển-đà? Có kham nổi sự đau đớn không? Bệnh tăng hay giảm?” Nói đầy đủ như kinh Xoa-ma trước. [51]

Tôn giả Xiển-đà thưa:

“Hiện tại thân bệnh của tôi quá đau đớn, khó kham nhẫn được. Bệnh tiếp tục càng tăng chứ không giảm, chỉ muốn cầm dao tự sát, không thích sống khổ.”

Tôn giả [347c] Xá-lợi-phất nói:

“Tôn giả Xiển-đa, thầy hãy nổ lực, chớ có tự hại mình. Nếu thầy còn sống, tôi sẽ tới lui chu toàn cho thầy. Nếu thầy có thiếu gì, tôi sẽ cung cấp cho thầy thuốc thang đúng pháp. Nếu thầy không có người nuôi bệnh, tôi sẽ chăm sóc thầy, làm cho thầy vừa ý, chẳng phải không vùa ý.”

Xiển-đà thưa:

“Tôi được các gia chủ, các Bà-la-môn trong thôn Na-la đến chăm sóc và cúng dường y phục, chăn nệm, đồ ăn thức uống, ngoạ cụ, thuốc thang, không thiếu thứ gì. Tôi cũng có đệ tử tu phạm hạnh, nuôi bệnh vừa ý chẳng phải không vừa ý. Nhưng tôi bị khổ đau bức bách vì tật bệnh, nên thân khó chịu đựng được nổi, chỉ muốn tự sát, không thích sống khổ.”

Xá-lợi-phất nói:

“Bây giờ, tôi hỏi thầy, cứ tuỳ ý trả lời tôi. Mắt, nhãn thức cùng sắc, chúng là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau?”

Xiển-đà đáp:

“Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, không vây.”

Lại hỏi Xiển-đà:

“Tai, mũi, lưỡi, thân, ý, … ý thức cùng pháp, chúng là ngã, khác ngã, hay ở trong nhau?”

Xiển-đà đáp:

“Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, không vậy.”

Lại hỏi Xiển-đà:

“Đối với mắt, nhãn thức và sắc, thầy thấy chúng thế nào, phân biệt chúng thế nào, biết chúng thế nào, mà bảo rằng mắt, nhãn thức, và sắc không phải ngã, không khác ngã, không ở trong nhau?

Xiển-đà đáp:

“Đối với mắt, nhãn thức, và sắc tôi thấy chúng diệt tận, và vì biết chúng diệt tận, nên nhận thấy mắt, nhãn thức, và sắc không phải ngã, không khác ngã, không ở trong nhau.”

Lại hỏi Xiển-đà:

“Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý, … ý thức cùng pháp, thầy thấy chúng thế nào, biết chúng thế nào, mà đối với ý, ý thức cùng pháp thấy không phải ngã, không khác ngã, không ở trong nhau?”

Xiể-đà đáp:

“Thưa Tôn giả Xá-lợi-phất, đối với ý, ý thức cùng pháp tôi thấy diệt tận t, và vì biết diệt tận nên đối với ý, ý thức cùng pháp, tôi nhận thấy không phải ngã, không khác ngã, không ở trong nhau. Tôn giả Xá-lợi-phất, nhưng hiện nay thân tôi đau khổ, không thể chịu nổi, muốn dùng dao tự sát, không muốn sống khổ.”

Bấy giờ, Tôn giả Câu-hy-la nói Tôn giả Xiển-đà:

“Hiện tại thầy đang theo   tu tập chánh niệm, như những lời Phật đã dạy: ‘Có sở thì bị dao động; bị dao động thì có thú hướng; có thứ hướng thì không tĩnh chỉ; không tĩnh chỉ thì qua lại các cõi; qua lại các cõi thì có sinh tử vị lai; có sinh tử vị lai thì có sinh diệt vị lai; có sinh diệt vị lai thì sẽ có sinh, già, bệnh, chết, ưu, bi, não, khổ, khối lớn thuần khổ tập khởi như vậy.’ [348a] Như những lời Phật đã dạy: ‘Không sở y thì không dao động; không dao động thì không có thú hướng; không có thú hướng thì có tĩnh chỉ; có tĩnh chỉ thì không qua lại các đường; không qua lại các đường thì không có sinh tử vị lai; không có sinh tử vị lai thì không có sinh, già, bệnh, chết, ưu, bi, não, khổ, thuần đại khối khổ diệt như vậy.’”

Xiển-đà thưa:

“Tôn già Ma-ha Câu-hy-la, tôi phụng sự Thế Tôn nay đã xong, tuỳ thuận Thiện Thệ nay đã hoàn tất, vừa ý chẳng phải không vừa ý. Những việc cần làm của đệ tử nay tôi đã làm xong. Nếu có đệ tử nào khác muốn phụng sự Đại sư, thì cũng nên như vậy mà phụng sự Đại sư, vừa ý chẳng phải không vừa ý. Nhưng bây giờ, thân tôi đau khổ, không thể chịu nổi, chỉ muốn dùng dao tự sát, không muốn sống khổ.”

Sau đó, Tôn giả Xiển-đà dùng dao tự sát ngay ở trong rừng Hảo y Am-la thôn Na-la.

Tôn giả Xá-lợi-phất sau khi cúng dường xá lợi Tôn giả Xiển-đà xong, đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân, đứng lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, Tôn giả Xiển-đà ở trong rừng Hảo y Am-la, tại thôn Na-la, đã dùng dao tự sát. Thế nào, bạch Thế Tôn, Tôn giả Xiển-đà kia sẽ đến đường nào? Thọ sinh thế nào? Đời sau ra sao?”

Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Người kia đã chẳng tự ký thuyết rằng: Thưa Tôn giả Ma-ha Câu-hy-la, tôi phụng sự Thế Tôn nay đã xong, tuỳ thuận Thiện thệ nay đã hoàn tất, rất là vừa ý chẳng phải không vừa ý. Nếu có người nào khác phụng sự Đại sư, thì cũng nên làm như vậy, vừa ý chẳng phải không vừa ý?”

Tôn giả Xá-lợi-phất  lại hỏi Thế Tôn:

“Tôn giả Xiển-đà kia, trước đó ở thôn Bà-la-môn Trấn-trân-ni, có nhà cúng dường, có nhà thân hậu, có nhà khéo an ủi.”

Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Như vậy, Xá-lợi-phất, thiện nam tử nào chánh trí, chánh thiện giải thoát, thì có nhà cúng dường, có nhà thân hậu, có nhà khéo an ủi. Này Xá-lợi-phất, Ta không nói họ có lỗi lầm lớn. [52] Nếu có người nào bỏ thân này rồi lại tiếp tục thân khác, Ta mới nói người đó có lỗi lầm lớn. Nếu có người nào bỏ thân này rồi, không còn thân nào khác  tiếp nối, Ta không nói người đó không có lỗi lầm lớn. Không có lỗi lầm lớn gì, khi Xiển-đà đã dùng dao tự sát ở thôn Na-la trong rừng Am-la.”

Như vậy, Thế Tôn kia nói thọ ký đệ nhất choTôn giả Xiển-đà. [53]

Phật nói kinh này xong, Tôn giả Xá-lợi-phất hoan hỷ làm lễ ra về.

KINH 927. PHẢ-CẦU-NA [54]

 [266c9] Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ Tôn giả Phả-cầu-na [55] đang ở tại giảng đường Lộc Tử mẫu trong vườn phía Đông, bị bệnh nguy khốn.

Tôn giả A-nan đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, rồi đứng lui qua một bên bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, Tôn giả Phả-cầu-na ở giảng đường Lộc Tử Mẫu trong vườn phía Đông bị bệnh nguy khốn. Bệnh của Tỳ kheo như vậy có thể chết. Lành thay, Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn vì thương xót  mà đến giảng đường Lộc Tử mẫu, vườn phía đông chỗ Tôn giả Phả-cầu-na.”

Thế Tôn im lặng nhận lời. Chiều hôm đó sau khi từ thiền tịnh dậy, Thế Tôn đến giảng đường Lộc Tử Mẫu, vườn phía Đông, vào phòng Tôn giả Phả-cầu-na, trải tòa mà ngồi, rồi thuyết pháp cho Tôn già Phả-cầu-na dạy dỗ, soi sáng, làm cho hoan hỷ, sau đó rời chỗ ngồi đứng dậy ra về.

Sau khi Thế Tôn đi không lâu Tôn giả Phả-cầu-na mạng chung. Lúc mạng chung các căn vui tươi, gương mặt thanh tịnh, sắc da tươi sáng. Tôn giả A-nan sau khi cúng dường xá-lợi Tôn giả Phả-cầu-na xong, về chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, rồi đứng qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, sau khi Thế Tôn đến thăm, không lâu sau đó Tôn giả Phả-cầu-na mạng chung. Lúc Tôn giả này sắp qua đời, các căn vui tươi, sắc da thanh tịnh, nhuận ánh sáng tươi. Bạch Thế Tôn, không biết Tôn giả ấy sẽ sinh về đâu, thọ sinh thế nào, đời sau ra sao?”

Phật bảo A-nan:

“Nếu có Tỳ kheo nào [267a] trước khi chưa bệnh, chưa đoạn năm hạ phần kết; khi bệnh phát khởi, thân thể đau đớn, tâm không điều hoà, mạng sống suy mòn, nhưng được nghe   chỉ dạy, nhắc nhở, nói nhiều pháp. Khi được nghe pháp xong, đoạn năm hạ phần kết. A-nan, đó là phước lợi có được từ sự chỉ dạy, nhắc nhở của  .

“Lại nữa, A-nan, nếu có Tỳ kheo nào, trước khi chưa bệnh, chưa đoạn năm hạ phần kết. Sau đó bệnh phát khởi, thân thể đau đớn, mạng sống suy mòn dần, không nhờ được nghe Đại sư chỉ dạy, nhắc nhở, nói pháp, nhưng gặp được các vị đồng phạm hạnh đại đức đa văn chỉ dạy, nhắc nhở, thuyết pháp. Khi được nghe pháp xong, đoạn năm hạ phần kết. A-nan, đó gọi là được phước lợi từ sự chỉ dạy, nhắc nhở, nghe pháp.

“Lại nữa, A-nan, Tỳ kheo trước khi chưa bệnh chưa đoạn năm hạ phần kết,... cho đến mạng sống suy mòn, không được nghe Đại sư chỉ dạy, nhắc nhở, thuyết pháp; lại cũng không nghe các vị đồng phạm hạnh đại đức đa văn chỉ dạy, nhắc nhở, thuyết pháp. Nhưng với pháp trước kia đã lãnh thọ, một mình ở nơi vắng lặng tư duy, quán sát, đoạn được năm hạ phần kết. A-nan, đó gọi là được phước lợi từ sự tư duy, quán sát pháp đã nghe từ trước.

“Lại nữa, A-nan,Tỳ kheo trước khi chưa bệnh đã đoạn năm hạ phần kết, nhưng chưa được ái tận giải thoát vô thượng, [56] tâm không hoàn toàn giải thoát khỏi các lậu. Sau đó tuy mắc bệnh, thân bị khổ đau, mạng sống suy mòn, nhưng nghe được Phật chỉ dạy, nhắc nhở, thuyết pháp, được ái tận giải thoát vô thượng, chẳng khởi các lậu, ly dục giải thoát. A-nan, đó gọi là được phước lợi từ sự thuyết pháp của Đại sư.

“Lại nữa, A-nan, Tỳ kheo trước khi chưa bệnh đã đoạn năm hạ phần kết, nhưng chưa được ái tận giải thoát vô thượng, chưa ly dục, giải thoát khỏi các lậu. Sau đó biết thân khởi bệnh, chịu khổ đau vô cùng. Tuy chẳng được Đại sư chỉ dạy, nhắc nhở, thuyết pháp, nhưng lại được các vị đồng phmạ hạnh đại đức đa văn khác chỉ dạy, nhắc nhở, thuyết pháp, được ái tận giải thoát vô thượng, chẳng khởi các lậu, ly dục, giải thoát. A-nan, đó gọi là được phước lớn từ sự chỉ dạy, nhắc nhở, thuyết pháp.

“Lại nữa, A-nan, Tỳ kheo trước khi chưa bị bệnh, đã đoạn năm hạ phần kết, nhưng chưa được ái tận giải thoát vô thượng, không ly dục, giải thoát khỏi các lậu. Sau đó thân bệnh khởi, sinh khổ đau vô cùng. Tuy không được Phật chỉ dạy, nhắc nhở, thuyết pháp, cũng không được các vị đại đức đa văn khác chỉ dạy, nhắc nhở, nói pháp; nhưng đối với pháp đã được nghe, ở chỗ vắng lặng tư duy, tư lương, quán sát, được ái tận giải thoát vô thượng, không khởi các lậu, ly dục, giải thoát. A-nan, đó gọi là được phước lợi từ sự tư duy những gì đã được nghe từ giáo pháp. [57]

“Duyên gì các căn Tỳ kheo Phả-cầu-na không được vui tươi, tướng mạo thanh tịnh, da dẻ nhuận tươi? [267b] Tỳ kheo Phả-cầu-na trứớc chưa bị bệnh, chưa đoạn năm hạ phần kết. Tỳ kheo này tự thân được nghe từ sự chỉ dạy, nhắc nhở, thuyết pháp của Đại sư, đã đoạn năm hạ phần kết.”

Thế Tôn ký thuyết Tôn giả Phả-cầu-na đã đắc quả A-na-hàm.

Phật nói kinh này xong. Tôn giả A-nan sau khi nghe những lời Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ, đảnh lễ rồi lui.

KINH 928. A-THẤP-BA-THỆ [58]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ Tôn giả A-thấp-ba-thệ [59] ở giảng đường Lộc Tử Mẫu tại vườn phía Đông, thân bị bệnh nặng, vô cùng đau khổ. Tôn giả Phú-lân-na là vị chăm sóc, phục dịch. Nói đầy đủ như kinh Bạt-ca-lê ở trước. [60] Đó là, ba thọ... cho đến càng tăng không giảm.

Phật bảo A-thấp-ba-thệ:

“Ngươi chớ hối tiếc.” [61]

A-thấp-ba-thệ bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, thật sự con có điều hối tiếc”

Phật bảo A-thấp-ba-thệ:

“Ngươi có phá giới không?”

A-thấp-ba-thệ bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con không phá giới.”

Phật bảo A-thấp-ba-thệ:

“Ngươi không phá giới, sao hối tiếc?”

A-thấp-ba-thệ bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, trước khi con chưa bệnh, con tu tập nhiều, chứng nhập tịnh lạc của thân an chỉ, [62] tu tập tam-muội nhiều. Còn hôm nay, con lại không nhập tam-muội kia được. Con tự suy nghĩ, không lẽ tam-muội này thối thất chăng?”

Phật bảo A-thấp-ba-thệ:

“Nay Ta hỏi ngươi, tùy ý trả lời Ta. Này A-thấp-ba-thệ, ngươi có thấy sắc tức là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau chăng?”

A-thấp-ba-thệ bạch Phật:

“Bạch Thê tôn, không.”

Lại hỏi:

“Ngươi có thấy thọ, tưởng, hành, thức là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau chăng?”

A-thấp-ba-thệ bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, không.”

Phật bảo A-thấ-ba-thệ:

“Ngươi đã không thấy sắc là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau; không thấy thọ, tưởng, hành, thức là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau, vậy vì sao lại hối tiếc?”

A-thấp-ba-thệ bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, vì không chánh tư duy.”

Phật bảo A-thấp-ba-thệ:

“Nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào mà tam-muội kiên cố, tam-muội bình đẳng, nhưng không nhập được tam-muội kia, thì không nên có ý nghĩ rằng mình thối thất đối với tam-muội. Thánh đệ tử không thấy sắc là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau; không thấy thọ, tưởng, hành, thức là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau; mà chỉ nên giác tri như vậy, thì tham dục hoàn toàn sạch hết không còn; sân nhuế, ngu si hết hẳn không còn. Khi tất cả lậu đã tận trừ, vô lậu tâm giải thoát, ngay trong hiện tại tự tri tác chứng, tự biết rằng [267c] ‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã xong, không còn tái sinh đời sau nữa.’”

Khi nghe Phật thuyết pháp này, Tôn giả A-thấp-ba-thệ không khởi các lậu, tâm được giải thoát, hian hỷ, phấn khởi. Do tâm được hoan hỷ, phấn khởi nên thân bệnh liền dứt trừ.

Phật nói kinh này làm cho Tôn giả A-thấp-ba-thệ hoan hỷ, tùy hỷ, rồi rời chỗ ngồi đứng dậy, ra về.

Kinh Sai-ma-ca. [63] Như nói về ngũ thủ uẩn.  

KINH 929. TẬT BỆNH (1) [64]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ có Tỳ kheo tuổi trẻ mới học, xuất gia trong Pháp Luật này chưa được lâu, ít người thân quen, một mình làm lữ khách, không có người cung cấp, đang trú trong phòng khách Tăng ngoài rìa một tụ lạc, bệnh đau nguy khốn. Bấy giờ có nhiều Tỳ kheo đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân, rồi ngồi xuống một bên, bạch Phật:

“ Bạch Thế Tôn, có một Tỳ kheo tuổi trẻ, mới học... cho đến bệnh đau nguy khốn đang ở trong phòng khách Tăng ngoài biên một tụ lạc. Có Tỳ kheo bệnh sống ít chết nhiều như vậy. Lành thay! Cúi xin Thế Tôn vì thương xót mà đến trú xứ này!”

Thế Tôn im lặng nhận lời. Buổi chiều, sau khi từ thiền tịnh dậy, Thế Tôn đến trú xứ ấy. Tỳ kheo bệnh từ xa trông thấy Thế Tôn, vịn giường muốn dậy. Phật bảo Tỳ kheo:

“Hãy nằm nghỉ, chớ dậy! Thế nào, Tỳ kheo? Có thể chịu đựng được khổ đau không?” … Chi tiết như kinh Sai-ma-ca trước đã nói. [65] “Ba thọ như vậy... cho đến bệnh khổ chỉ tăng không giảm.”

Phật nói với Tỳ kheo bệnh:

“Bậy giờ Ta hỏi ngươi. Hãy tùy ý trả lời Ta.”

“Ngươi không có gì hối tiếc chăng?” [66]

Tỳ kheo bệnh bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, thật sự con có điều hối tiếc.”

Phật bảo Tỳ kheo bệnh:

“Ngươi không phạm giới chăng?”

Tỳ kheo bệnh bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn! Thật sự, con không phạm giới.”

Phật bảo Tỳ kheo bệnh:

“Nếu ngươi không phạm giới, ngươi có điều gì mà lại hối tiếc?”

Tỳ kheo bệnh bạch Phật:

“Con tuổi trẻ xuất gia chưa bao lâu, đối với pháp thượng nhơn, và tri kiến thắng diệu chưa có sở đắc. Con tự nghĩ, lúc mạng chung, biết tái sinh nơi đâu? Vì vậy con sinh ra hối tiếc.”

Phật bảo Tỳ kheo:

“Nay Ta hỏi ngươi. Hãy tùy ý trả lời Ta. Thế nào, Tỳ kheo? Vì có mắt nên có nhãn thức phải không?”

Tỳ kheo bệnh bạch:

“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”

Lại hỏi:

“Tỳ kheo, ý ngươi thế nào? Vì có nhãn thức nên có nhãn xúc. Do nhãn xúc làm nhân làm duyên sinh ra cảm thọ hoặc khổ, hoặc lạc, hoặc không khổ không lạc bên trong phải không?”

 [268a]Tỳ kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”

Đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng nói như vậy.

“Thế nào, Tỳ kheo? Nếu không có mắt thì không có nhãn thức phải không?”

Tỳ kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”

Lại hỏi:

“Tỳ kheo, nếu không có nhãn thức thì không có nhãn xúc phải không? Nếu không có nhãn xúc thì không có nhãn xúc làm nhân làm duyên sinh cảm thọ hoặc khổ, hoặc lạc, hoặc không khổ không lạc bên trong, phải không?”

Tỳ kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”

Đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng nói như vậy.

“Cho nên, Tỳ kheo, hãy khéo tư duy pháp như vậy, thì lúc mạng chung được an lành, đời sau cũng an lanh.”

Thế Tôn sau khi nói pháp cho Tỳ kheo bệnh, chỉ dạy, soi sáng, làm cho hoan hỷ, rồi rời chỗ ngồi đứng dậy ra đi. Sau khi Thế Tôn đi rồi, không lâu Tỳ kheo mạng chung. Khi sắp mạng chung, các căn ngươi vui tươi, tướng mạo thanh tịnh, sắc da tươi sáng. Lúc ấy, nhiều Tỳ kheo đi đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân, rồi ngồi xuống một bên, bạch Phật:

“Tỳ kheo trẻ tuổi kia bị bệnh  nguy khốn. Nay Tôn giả đã mạng chung. Khi vị này sắp qua đời, các căn vui tươi, tướng mạo thanh tịnh, sắc da tươi sáng. Thế nào, bạch Thế Tôn, Tỳ kheo này sẽ sinh về nơi nào? Thọ sinh ra sao? Đời sau thế nào?”

Phật bảo các Tỳ kheo:

“Tỳ kheo kia đã qua đời kia thật sự như vây. [67] Nghe Ta nói pháp hiểu biết rõ ràng, ở nơi pháp không còn sợ hãi [68] mà đạt được Bát-niết-bàn. Các ngươi hãy nên lo việc xá-lợi.”

Bấy giờ, Thế Tôn thọ ký cho Tỳ kheo này là bậc nhất. [69]

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 930. TẬT BỆNH (2) [70]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Nói như trên chỉ có sự sai biệt là:

“Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà nói. Nếu Tỳ kheo nào nghĩ như vầy: Ta ở trong thân có thức này và trong tất cả tướng của cảnh giới bên ngoài không thấy có ngã, ngã sở, ngã mạn kết sử, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong hiện tại tự biết tác chứng, thành tựu và an trụ. [71] (…) [268b] Đó gọi là Tỳ kheo đoạn ái dục, chuyển các kết, chân chánh [72] hiện quán mạn cứu cánh thoát khổ.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 931. TỲ KHEO BỆNH [73]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Nói như trên, chỉ có một vài sai biệt là:... cho đến Phật nói với Tỳ kheo bệnh:

“Ngươi không phạm giới phải không?”

Tỳ kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con không phải vì để thọ trì tịnh giới mà ở chỗ Thế Tôn tu phạm hạnh.”

Phật bảo Tỳ kheo:

“Ngươi vì những pháp gì mà ở chỗ Ta tu phạm hạnh?”

Tỳ kheo bạch Phật:

“Vì ly tham dục nên con ở chỗ Thế Tôn tu phạm hạnh. Vì ly sân nhuế, ngu si nên con ở chỗ Thế Tôn tu phạm hạnh.”

Phật bảo Tỳ kheo:

“Đúng vậy! Đúng vậy! Ngươi nên thật sự vì để vì ly tham dục  nên ở chỗ Ta tu phạm hạnh. Vì ly sân nhuế, ngu si nên ở chỗ Ta tu phạm hạnh. Này Tỳ kheo, vì bi tham dục quấn chặt nên không thể ly dục được. Vì bị vô minh quấn chặt nên tuệ không thanh tịnh. Cho nên, Tỳ kheo! Ở nơi dục mà ly dục, tâm giải thoát. Do ly vô minh nên tuệ giải thoát. Tỳ kheo ở nơi mà dục ly dục, tự thân tác chứng tâm giải thoát. Do ly vô minh nên tuệ giải thoát. Đó gọi là Tỳ kheo đoạn các ái dục, chuyển kết phược, chân chánh hiện quán mạn, cứu cánh biên tế khổ. Cho nên, Tỳ kheo, đối với pháp này phải khéo tư duy.”

 Nói đầy đủ như trên... cho đến thọ ký bậc nhất.

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 932. TẬT BÊNH (3) [74]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ có nhiều Tỳ kheo cùng tụ tập ở giảng đường Già-lê-lệ. [75] Lúc đó có nhiều Tỳ kheo bệnh.

Buổi chiều Thế Tôn sau khi từ thiền tịnh tỉnh giấc, đến giảng đường Già-lê-lệ, trải tòa ngồi trước đại chúng. [268c] Sau khi an tọa, Phật nói với các Tỳ kheo:

“Hãy chánh niệm, chánh trí để đợi thời. [76] Đó là giáo huấn của Ta. [77] Này các Tỳ kheo, thế nào là chánh niệm? Tỳ kheo sống quán niệm thân trên thân, tinh cần, chánh niệm, chánh trí, điều phục tham ưu thế gian; sống quán niệm ngoại thân trên thân, sống quán niệm nội ngoại thân trên thân; nội thọ, ngoại thọ, nội ngoại thọ; nội tâm, ngoại tâm, nội ngoại tâm; sống quán niệm nội pháp, ngoại pháp, nội ngoại pháp, phương tiện tinh cần, chánh niệm, chánh trí, điều phục tham ưu thế gian. Đó gọi là Tỳ kheo ức niệm chánh.

“Thế nào là chánh trí? Tỳ kheo hoặc tới hoặc lui an trụ chánh trí; nhìn trông, quán sát, co, duỗi, cúi, ngước, nắm cầm y bát, đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức... cho đến năm mươi, sáu mươi người nói năng hay im lặng đều y theo hạnh chánh trí. Tỳ kheo, đó gọi là chánh trí. Cũng thế, Tỳ kheo an trụ chánh niệm, chánh trí, có thể khởi cảm thọ lạc, có nhân duyên chứ không phải không nhân duyên.

“Thế nào là nhân duyên? Duyên vào thân khởi suy nghĩ: ‘Thân này của ta là vô thường, hữu vi, tâm nhơn duyên sinh. Cảm thọ lạc cũng vô thường, hữu vi, tâm nhơn duyên sinh.’ Quán sát thân và cảm thọ lạc, quán sát vô thường, quán sát sinh diệt, quán sát ly dục, quán sát diệt tận, quán sát xả. Vị ấy quán sát thân cùng với cảm thọ lạc là vô thường... cho đến xả. Nếu ở nơi thân và cảm thọ lạc mà kết sử tham dục [78] vĩnh viễn không còn sai sử nữa. [79] Cũng vậy, với chánh niệm, chánh trí, biết cảm thọ khổ páht sinh, có nhân duyên chứ không phải không nhân duyên.

“Thế nào là nhân duyên? Cũng vậy, duyên vào thân khởi tư duy: ‘Thân này của ta là vô thường, hữu vi, tâm nhơn duyên sinh. Cảm thọ khổ cũng vô thường, hữu vi, tâm nhơn duyên sinh.’ Quán sát thân và cảm thọ khổ, là vô thường cho đến xả. Ở nơi thân này và cảm thọ khổ mà kết sử sân nhuế vĩnh viễn không còn sai sử nữa. Cũng vậy, với chánh niệm, chánh trí, biết cảm thọ không khổ, không vui phát sinh, có nhơn duyên chứ không phải không nhơn duyên.

“Thế nào là nhơn duyên? Duyên vào thân khởi suy nghĩ: ‘Thân này của ta là vô thường, hữu vi, tâm nhơn duyên sinh. Cảm thọ  chẳng khổ chẳng vui, cũng vô thường, hữu vi, tâm nhơn duyên sinh,’ Quán sát thân và cảm thọ không khổ, không vui kia, là vô thường cho đến xả. Nếu những gì ở nơi thân và cảm thọ không khổ không lạc  mà kết sử vô minh sử  vĩnh viễn không còn sai sử nữa. Đa văn Thánh đệ tử quán sát như vậy, đối với sắc yểm ly, đối với thọ, tưởng, hành, thức yểm ly. Đã yểm ly rồi, ly dục. Ly dục rồi, được giải thoát, giải thoát tri kiến, tự biết ‘Ta, sự sinh của đã dứt, phạm hạnh đã lập, những việc cần làm đã làm xong, không còn tái sinh đời sau nữa.’”

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ:

 [269a]Khi đang cảm giác lạc;

Không biết cảm giác lạc.

Vì kết sử tham dục,

Nên không thấy xuất ly.

Khi đang cảm giác khổ,

Không biết cảm giác khổ.

Vì kết sử sân nhuế ,

Nên không thấy xuất ly.

Cảm thọ không lạc, khổ,

Đẳng Chánh Giác đã nói,

Ai không biết điều đo,

Không thể qua bờ kia.

Nếu Tỳ kheo tinh tấn,

Chánh trí không dao động;

Nơi tất cả thọ kia,

Trí tuệ đều biết hết.

Thường biết các thọ rồi,

Hiện tại hết các lậu;

Mạng chung nương trí tuệ,

Niết-bàn không đọa lạc.

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 933. TẬT BỆNH (4) [80]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Nói như trên.

Bấy giờ, các Tỳ kheo tụ tập nơi giảng đường Già-lê-lệ, [81] đa số đều bị bệnh. Nói như trên, chỉ có một vài sai biệt là: cho đến “… Thánh đệ tử nên quán sát như vầy, ở nơi sắc mà  giải thoát, ở nơi thọ, tưởng, hành, thức giải thoát. Ta nói những người này giải thoát sinh, lão, bệnh, tử.”

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:

Bậc trí tuệ đa văn,

Đều tỏ rõ các thọ.

Đối cảm thọ khổ, lạc,

Phân biệt thật rõ ràng.

Nên biết việc chắc chắn,

Phàm phu có lên xuống.

Nơi lạc không nhiễm trước,

Nơi khổ không xiêu động.

Biết thọ không thọ sinh;

Tham, nhuế y cảm thọ,

Đoạn trừ những pháp này,

Tâm kia khéo giải thoát.

Buộc niệm vào diệu cảnh,

Chánh hướng đợi hết đời.

Nếu Tỳ kheo tinh cần,

Chánh trí chẳng xiêu động;

Đối với mọi thọ này,

Kẻ trí thường giác tri.

Thấu rõ các thọ rồi,

Hiện tại hết các lậu,

Mạng chung nương trí tuệ,

Niết-bàn không đọa lạc.

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ làm lễ rồi lui

KINH 934.  CẤP CÔ ĐỘC (1) [82]

 [269b]Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ Trưởng giả Cấp Cô Độc bị bệnh, thân thể khổ đau vô cùng.

Thế Tôn nghe tin này, sáng sớm Ngài khóac y, ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực, theo thứ tự khất thực, lần lượt đến nhà Trưởng giả Cấp Cô Độc. Trưởng giả từ xa trông thấy Thế Tôn, vịn giường muốn dậy. Thế Tôn thấy thế liền bảo:

“Trưởng giả! Chớ dậy mà tăng bệnh khổ.”

Thế Tôn ngồi xuống rồi nói với trưởng giả:

“Thế nào Trưởng giả? Bệnh có thể chịu được không? Thân bệnh, đau đớn tăng hay giảm?”

Gia chủ bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn! Con rất đau đớn, khó chịu nổi!... cho đến nói ba thọ, chi tiết như kinh Sai-ma.... cho đến “… cảm thọ khổ chỉ tăng chứ không giảm.”

Phật bảo Gia chủ:

“Nên học như vầy: Đối với Phật có tín  thanh tịnh bất hoại, đối với Pháp, Tăng, có  tín thanh tịnh bất hoại, và thành tựu Thánh giới.”

Gia chủ bạch Phật:

“Như Thế Tôn đã dạy bốn bất hoại tịnh. Con có pháp này, trong pháp này có con. Bạch Thế Tôn, nay đối với Phật con có tín thanh tịnh bất hoại, đối với Pháp, Tăng có tín thanh tịnh bất hoại, và thành tựu Thánh giới.”

Phật bảo Gia chủ:

“Lành thay! lành thay!”

Rồi Phật liền thọ ký cho trưởng giả đắc quả A-na-hàm.

Trưởng giả bạch Phật:

“Hôm nay, con xin cung thỉnh Thế Tôn thọ thực ở đây.”

Thế Tôn im lặng nhận lời. Trưởng sai bảo tôi tớ sửa soạn các thứ đồ ăn thức uống ăn tinh khiết, ngon lành cúng dường Thế Tôn. Thế Tôn thọ thực xong, nói các pháp cho trưởng giả nghe, chỉ dạy, soi sáng, làm cho hoan hỷ, rồi từ khỏi chỗ ngồi đứng dậy ra về.

KINH 935. CẤP CÔ ĐỘC (2) [83]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ Tôn giả A-nan nghe Trưởng giả Cấp Cô Độc than bị bệnh khổ, liên đến nhà ông thăm.

Từ xa trưởng giả trông thấy A-nan, vịn giường muốn dậy... cho đến nói vê ba thọ,  đầy đủ như kinh Sai-ma ở trước dạy .. cho đến “…bệnh khổ chỉ tăng chứ không giảm.”

Bấy giờ, Tôn giả A-nan bảo Gia chủ:

“Đừng sợ hãi! Chỉ có phàm phu ngu si vô học vì không tin Phật, không tin Pháp, Tăng, không đầy đủ Thánh giới, nên có sự sợ hãi, và sợ sau khi mạng chung cùng cái khổ đời sau. Còn Ông đối với sự bất tín ấy ngày nay đã đoạn, đã biến tri. Đối với Phật đầy đủ tín thanh tịnh. Đối với Pháp, Tăng đầy đủ tín thanh tịnh. Đã thành tựu Thánh giới.”

Trưởng giả thưa Tôn giả A-nan:

“Ngày nay con còn sợ hãi cái gì? Lần đầu tiên con mới gặp Thế Tôn giữa bãi tha ma trong rừng Lạnh, thành Vương Xá, liền được tín thanh tịnh bất hoại đối với Phật, được tín thanh tịnh bất hoại đối với Pháp, Tăng, và thành tựu Thánh giới. Từ đó đến nay, nhà có tiền của đều đem cúng dường cho đệ tử Phật là Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu-ba-tắc, ưu-bà-di.”

Tôn giả A-nan nói:

“Lành thay, Trưởng giả! Ông tự ký thuyết quả Tu-đà-hoàn.”

Gia chủ bạch Tôn giả A-nan:

“Xin mời Tôn giả thọ thực tại đây.”

Tôn giả A-nan im lặng nhận lời.

Trưởng giả liền cho sửa soạn các thứ đồ ăn thức uống tinh khiết, ngon lành, cúng dường Tôn giả A-nan. Sau khi thọ thực xong, lại vì Gia chủ thuyết pháp, chỉ dạy, soi sáng, lànm an vui, rồi rời chỗ ngồi đứng dậy ra về.

KINH 936. CẤP CÔ ĐỘC (3) [84]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất nghe tin Trưởng giả Cấp Cô Độc thân bị bệnh khổ. Nghe vây,  hỏi Tôn giả A-nan :

„Thầy có biết chăng? Trưởng giả Cấp Cô Độc thân đang bị bệnh khổ. Chúng ta hãy cùng đến thăm.”

Tôn giả A-nan im lặng nhận lời. Khi ấy Tôn giả Xá-lợi-phất cùng Tôn giả A-nan đến nhà Trưởng giả Cấp Cô Độc. Trưởng giả từ xa trông thấy Tôn giả Xá-lợi-phất, vịn giường muốn dậy... cho đến nói về ba thọ, đầy đủ như  kinh Sai-ma, “... bệnh khổ của thân càng tăng chứ không giảm.”

Tôn giả Xá-lợi-phất bảo Gia chủ:

“Nên học như vầy: Không chấp thủ mắt. Không có thức tham dục y trên nhãn giới mà sinh. Không chấp thủ tai, mũi, lưỡi, thân, ý,; không có thức tham dục y trên ý giới mà sinh. Không chấp thủ sắc, không có thức tham dục y trên sắc giới sinh. Không chấp thủ thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có thức tham dục y trên pháp giới sinh. Không chấp thủ địa giới; không có thức tham dục y trên địa giới sinh. Không chấp thủ thủy, hỏa, phong, không, thức giới; không có thức tham dục y trên thức giới sinh. Không chấp thủ sắc uẩn; không có thức tham dục y trên sắc uẩn sinh. Không chấp thủ thọ, tưởng, hành, thức uẩn,... không có thức tham dục y trên thức ấm sinh.”

Lúc ấy Trưởng giả Cấp Cô Độc cảm động rơi nước mắt. Tôn giả A-nan nói với Gia chủ:

“Trưởng giả khiếp sợ hạ liệt chăng?” [85]

Trưởng giả thưa với Tôn giả A-nan:

“Con không khiếp sợ hạ liệt. Con tự xét lại, từ khi phụng sự Phật cho đến nay, đã hơn hai mươi năm, mà con chưa lần nào nghe Tôn giả Xá-lợi-phất nói pháp sâu xa, vi diệu như những gì vừa được nghe hôm nay.”

Tôn giả Xá-lợi-phất bảo Gia chủ:

“Từ lâu tôi cũng chưa từng nói pháp như vậy cho các gia chủ.”

Gia chủ thưa Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Có bạch y tại gia có  tín thù thắng, niệm thù thắng, [270a] lạc thù thắng, nhưng vì không nghe pháp sâu xa nên sinh ra thối thất. Lành thay! Tôn giả Xá-lợi-phất, cúi xin Tôn giả thương xót vì hàng bạch y tại gia mà nói pháp thâm diệu. Tôn giả Xá-lợi-phất,  hôm nay xin Tôn giả thọ thực tại đây.”

Tôn giả Xá-lợi-phất im lặng nhận lời. Trưởng giả liền cho sửa soạn đồ ăn thức uống  tinh khiết ngon lành cung kính cúng dường. Thọ thực xong, Xá-lợi-phất lại thuyết pháp cho trưởng giả, chỉ dạy, soi sáng, làm cho hoan hỷ, rồi rời chỗ ngồi đứng dậy ra về.

KINH 937. ĐẠT-MA-ĐỀ-LI [86]

Đạt-ma-đề-li, kinh thứ nhất cũng nói đầy đủ như kinh đầu đức Thế Tôn nói pháp cho Trưởng giả Cấp Cô Độc. Kinh thứ hai cũng nói như vậy, chỉ có một vài sai khác là:

“Nếu lại có Gia chủ nào y vào bốn bất hoại tịnh, rồi còn hướng lên tu tập sáu niệm, từ niệm Như Lai sự... cho đến niệm Thiên.”

Gia chủ bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, y vào bốn bất hoại tịnh, rồi còn hướng lên tu tập sáu tùy niệm, ngày nay con đều thành tựu. Con thường tu tập niệm Như Lai sự... cho đến niệm Thiên.”

Phật bảo Gia chủ:

“Lành thay! lành thay! Hôm nay Ông tự ký thuyết quả A-na-hàm.”

Gia chủ bạch Phật:

“Xin Thế Tôn nhận lời thỉnh thọ thực của con.”

Bấy giờ Thế Tôn im lặng nhận lời. Gia chủ biết Phật đã nhận lời, liền cho sửa soạn đồ ăn thức uống tinh khiết ngon lành, cung kính cúng dường. Thế Tôn thọ thực xong lại vì Gia chủ nói pháp, chỉ dạy, soi sáng, làm cho an vui, rồi Ngài rời chỗ ngồi đứng dậy ra về.

KINH 938. TRƯỜNG THỌ [87]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương xá. Bấy giờ có đồng tử Trường Thọ [88] là cháu gia chủ Thọ Đề [89] thân mắc bệnh nặng.

Bấy giờ Thế Tôn nghe đồng tử Trường Thọ thân mắc bệnh nặng, sáng sớm khóac y ôm bát  vào thành Vương Xá khất thực, theo thứ tự, lần lượt đi đến nhà đồng tử Trường Thọ. Đồng tử Trường Thọ từ xa thấy Thế Tôn, vịn giường muốn dậy... cho đến nói về ba thọ như kinh Sai-ma đã nói đầy đủ;... cho đến “…bệnh khổ chỉ tăng không giảm.”

“Cho nên, Đồng tử, hãy học như vầy: Hãy có tín thanh tịnh bất hoại đối với Phật. Hãy có tín thanh tịnh bất hoại đối với Pháp, Tăng, và thành tựu Thánh giới. Hãy học như vậy.”

Đồng tử bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, như Thế Tôn đã nói về bốn bất hoại tịnh. Hiện tại con đều có. Con lúc nảo cũng có tín thanh tịnh bất hoại đối với Phật; có tín thanh tịnh bất hoại đối với Pháp, Tăng, và thành tựu Thánh giới.”

Phật bảo đồng tử:

“Ông nên y vào bốn bất hoại tịnh, để hướng lên tu tập sáu minh phần tưởng. [90] Những gì là sáu? Quán tưởng tất cả hành là vô thường, [270b] quán tưởng vô thường là khổ, quán tưởng khổ là vô ngã, quán tưởng về thức ăn, quán tưởng tất cả thế gian không gì đáng vui, quán tưởng về sự chết.”

Đồng tử bạch Phật:

“Như Thế Tôn nói y vào bốn bất hoại tịnh để tu tập sáu minh phần tưởng. Hiện tại con đều có. Nhưng con tự nghĩ, sau khi chết, con không biết ông nội của con là Gia chủ Thọ Đề sẽ thế nào?”

Bấy giờ Gia chủ Thọ Đề nói với đồng tử Trường Thọ:

“Đối với Ông, cháu đừng nghĩ đến. Hiện giờ cháu nên nghe Thế Tôn nói pháp, suy nghĩ và nhớ lấy, mới có thể được phước lợi, an vui, hữu ích lâu dài.”

Đồng tử Trường Thọ nói:

“Đối với tất cả hành con sẽ quán tưởng chúng là vô thường, quán tưởng vô thường là khổ, quán tưởng khổ là vô ngã, quán tưởng về thức ăn, quán tưởng thế gian không gì là lạc, quán tưởng về sự chết, lúc nào chúng cũng hiện hữu trước mặt.”

Phật bảo đồng tử:

“Hôm nay con đã tự ký thuyết quả Tư-đà-hàm.”

Đồng tử Trường Thọ bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, xin thỉnh Thế Tôn thọ thực tại nhà con.”

Thế Tôn im lặng nhận lời. Trường Thọ đồng tử liền cho sửa soạn đồ ăn thức uống tinh khiết, ngon lành, cung kính cúng dường. Thế Tôn thọ thực xong, thuyết pháp đồng tử, chỉ dạy, soi sáng, làm cho hoan hỷ, rồi rời chỗ ngồi đứng dậy ra về.

KINH 939. BÀ-TẨU [91]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Lộc dã, tại trú xứ Tiên nhơn, nước Ba-la-nại. Bấy giờ Ggia chủ Bà-tẩu [92] thân bị bệnh khổ. Nói đầy đủ như kinh Gia chủ Đạt-ma-đề-na [93] ở trước... được thọ ký đắc quả A-na-hàm... cho đến rời chỗ ngồi đứng dậy ra về.

KINH 940. SA-LA [94]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Câu-ni-luật, tại nước Ca-tỳ-la-vệ. Bấy giờ có Sa-la họ Thích [95] bị bệnh liệt nặng.

Thế Tôn hay tin Sa-la họ Thích bệnh liệt nặng, sáng sớm khóac y, mang bát vào thành Ca-tỳ-la-vệ khất thực, theo thứ tự lần lượt đến nhà Sa-la họ Thích. Từ xa Sa-la họ Thích trông thấy Thế Tôn, vịn giường muốn dậy... cho đến nói về ba thọ như đã nói đầy đủ trong kinh Sai-ma-ca... cho đến “…bệnh khổ chỉ tăng chứ không giảm.”

“Cho nên, Sa-la họ Thích, hãy học như vầy: Hãy có tín thanh tịnh bất hoại đối với Phật. Hãy có tín thanh tịnh bất hoại đối với pháp, Tăng, và thành tựu Thánh giới.”

Sa-la họ Thích bạch Phật:

“Như Thế Tôn nói: Hãy có tín thanh tịnh bất hoại đối với Phật. Hãy có tín  thanh tịnh bất hoại đối với Pháp, Tăng, và thành tựu Thánh giới. Con đều có đủ. Con lúc nào cững có tín thanh tịnh bất hoại đối với Phật; [270c] tín thanh tịnh bất hoại đối với Pháp, Tăng, và thành tựu Thánh giới.”

Phật bảo Sa-la họ Thích:

“Cho nên Ông phải y vào tín thanh tịnh bất hoại đối với Phật, tín thanh tịnh bất hoại đối với Pháp, Tăng và thành tựu Thánh giới, đề hướng lên tu tập năm hỷ xứ. [96] Những gì là năm? Đó là niệm Như Lai sự... cho đến tự những pháp bố thí.”

Sa-la họ Thích bạch Phật:

“Như Thế Tôn đã nói y vào bốn bất hoại tịnh, để tu năm hỷ xứ, con cũng đã có. Con lúc nào cũng niệm Như Lai sự... cho đến tự mình hanh pháp bố thí.”

Phật dạy:

“Lành thay! lành thay!  Nay tự ông ký thuyết quả Tư-đà-hàm.”

Sa-la bạch Phật:

“Xin Thế Tôn hôm nay thọ thực tại nhà con.”

Thê tôn im lặng nhận lời. Gia chủ Sa-la liền cho sửa soạn đồ ăn thức uống tinh khiết, ngon lành, cung kính cúng dường. Thế Tôn thọ thực xong, lại vì Gia chủ thuyết pháp, chỉ dạy, soi sáng, làm cho an vui, rồi rời chỗ ngồi đứng dậy ra về.

KINH 941. DA-THÂU [97]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật trú trong một tinh xá Khúc cốc, thôn Na-lê. Bấy giờ, Gia chủ Da-thâu [98] bị bệnh trầm trọng, như vậy... cho đến ký thuyết đắc quả A-na-hàm. Như đã nói đầy đủ trong kinh Đạt-ma-đề-na. [99]

KINH 942. MA-NA-ĐỀ-NA [100]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật trú bên ao Kiệt-già, tại nước Chiêm-bà. Bấy giờ có Gia chủ Ma-na-đề-na [101] bị bệnh mới bớt. [102]

Bấy giờ gia chủ nói với một người nam:

“Này thiện nam tử, ngươi hãy đến chỗ Tôn giả A-na-luật, thay tôi đảnh lễ sát chân, hỏi thăm cuộc sống có thoải mái, an lạc không? Ngày mai, xin cùng bốn vị nhận lời thỉnh của tôi. Nếu nhận lời, ngươi nên vì tôi bạch rằng tôi là người thế tục bận nhiều công việc vương gia không thể đích thân đến rước được, xin Tôn giả thương xót, đến giờ cùng bốn vị đến phó hội theo lời mời của tôi.”

Lúc ấy người nam kia vâng lời Gia chủ, đi đến chỗ Tôn già A-na-luật, đảnh lễ sát chân, thưa Tôn giả rằng:

“Gia chủ Ma-na-đề-na xin kính lễ, và hỏi thăm cuộc sống của Tôn giả ít bệnh, ít não, thoải mái, an lạc không? Trưa ngày mai, xin mời Tôn giả cùng bốn vị, thương xót mà nhận lời thỉnh cầu của Gia chủ.”

Tôn giả A-na-luật im lặng nhận lời mời. Nngười kia lại vì Gia chủ Ma-na-đề-na thưa Tôn giả A-na-luật:

“Gia chủ là người thế tục bận nhiều công việc vương gia không thể đích thân đến rước được, xin Tôn giả thương xót, cùng bốn vị nhận  lời mời trưa ngày mai của Gia chủ.”

Tôn giả A-na-luật nói:

 [271a]“Ông cứ an tâm, tôi tự biết thời. Ngày mai sẽ cùng bốn vị đến nhà Gia chủ.”

Khi ấy, người này theo lời dạy của Tôn giả A-na-luật, về thưa lại Gia chủ A-lê:

“Thưa A-lê, [103] nên biết, tôi đã đến Tôn giả A-na-luật, trình đầy đủ theo tôn ý. Tôn giả A-na-luật nói rằng Gia chủ cứ an tâm, Ngài tự biết thời.”

Tối hôm đó, Gia chủ Ma-na-đề-na sửa soạn đồ ăn thức uống tinh khiết, ngon lành. Sáng sớm, lại sai người kia, chú đến chỗ Tôn giả A-na-luật thưa đã đến giờ. Người kia liền vâng lời đi đến chỗ Tôn giả A-na-luật, cúi đầu đảnh lễ sát chân, bạch rằng: “Đồ cúng dường đã sửa soạn xong, xin Ngài biết thời.”

Bấy giờ, Tôn giả A-na-luật khóac y ôm bát cùng với bốn vị đi đền nhà Gia chủ. Trong lúc ấy, Gia chủ Ma-na-đề-na với các thể nữ đang đứng vây quanh, đứng trong cửa bên trái, trông thấy Tôn giả A-na-luật, ông cúi người ôm chân kính lễ, rồi rước vào chỗ ngồi. Ai nầy đều cúi đầu chào hỏi, rồi ngồi xuống một bên.

Tô giả A-na-luật hỏi thăm Gia chủ:

“Ồng có an trụ kham nhẫn, an lạc không?”

Gia chủ đáp:

“Vâng, thưa Tôn giả, con an trụ kham nhẫn, an lạc. Trước đây, con bị bệnh nặng, nhưng hôm nay đã bớt rồi.”

Tôn giả A-na-luật hỏi Gia chủ:

“Gia chủ trụ tâm thế nào để có thể khiến cho bệnh tật khổ não bớt dần?”

Gia chủ bạch:

“Thưa Tôn giả A-na-luật, con trụ vào bốn niệm xứ, chuyên tu buộc niệm, nên các thứ bệnh tật khổ đau nơi thân đều được đình chỉ. Những gì là bốn? An trụ quán niệm nội thân trên thân, nổ lực tinh cần, chánh niệm, chánh trí, điều phục tham ưu thế gian; ngoại thân, nội ngoại thân; nội thọ, ngoại thọ, nội ngoại thọ; nội tâm, ngoại tâm, nội ngoại tâm; an trụ quán niệm nội pháp; ngoại pháp, nội ngoại pháp trên pháp, nổ lực tinh cần, chánh niệm, chánh trí, điều phục tham ưu thế gian. Như vậy, Tôn giả A-na-luật, con nhờ buộc tâm trụ vào bốn niệm xứ nên mọi thứ bệnh tật khổ đau nơi thân đều được đình chỉ. Thưa Tôn giả A-na-luật, nhờ trụ tâm được nên mọi thứ tất bệnh khổ đau đều được đình chỉ.”

Tôn giả A-na-luật bảo Gia chủ:

“Hôm nay, Gia chủ tự ký thuyết quả A-na-hàm.”

Khi ấy, Gia chủ Ma-na-đề-na mang các thứ đồ ăn thức uống thanh khiết, ngon lành, tự tay cúng dường đầy đủ. Sau khi cáic Ngài thọ thực và súc rửa miệng xong, Gia chủ Ma-na-đề-na lại ngồi nơi ghế thấp nghe pháp. Tôn giả A-na-luật nói pháp, chỉ dạy, soi sáng, làm cho an vui, rồi rời chỗ ngồi đứng dậy ra về. 


 [36] Tương ưng bịnh, gồm các kinh Đại chánh, kinh 1023-1038 (nửa đầu quyển 37) và kinh 1265-1266 ( cuối quyển 47). Quốc dịch,  quyển 31, “ Tụng vi. Tám chúng, 3. Tương ưng Bệnh. Ấn Thuận, “ Tụng vii. Như lai, 50. Tương ưng Bệnh”

 [37] Đại chánh, kinh 1265. S. 22. 87. Vakkali.

 [38] Bạt-ca-lê 跋迦梨. Pāli: Vakkali.

 [39] Kim sư tinh xá 金師精舍. Nên hiểu là trong nhà một người thợ kim hoàn. Vì hình như không có tinh xá nào như vậy tại Vương Xá. Cf. Pāli ibid.: kumbhakāraṇivase, trong nhà một người thợ gốm.

 [40] Xem kinh 105 (Đại chánh, 103).

 [41] Bản Hán nhảy sót một đoạn. Cf. Pāli, ibid.: Phật nói với Vakkali: alaṃ, vakkali, kiṃ te iminā pūtikāyena diṭṭhena? yo kho, vakkali, dhammaṃ passati so maṃ passati; yo maṃ passati so dhammaṃ passati, “Thôi đủ rồi, này Vakkali, ích gì cho người mà thấy cái thân hôi thối này? Ai thấy pháp, người đó thấy Ta. Ai thấy Ta, người đó thấy pháp.”

 [42] Nguyên Hán: hậu thế. Hán dịch có thể nhầm. sự đã đoạn tận tham dục ở đây chỉ cho A-lahán, không còn tái sanh đời sau nữa. Xem thêm đoạn kết của Bạt-ca-lê sẽ rõ.

 [43] Thiện giải thoát; Pāli: suvimutto. Sớ giải, vị ấy sẽ giải thoát sau khi đã giải thoát với sự giải thoát của quả vị A-la-hán.

 [44] Hậu thế. Hán dịch có lẽ nhầm. Ở đây Phật thọ ký Bạt-ca-lê sẽ đắc quả A-la-hán trước khi chết, nên không có sự tái sinh đời sau. Pāli, ibid., Tỳ kheo truyền lại lời Phật: mā bhāyi, vakkali, mā bhāyi, vakkali, apāpakaṃ te maraṇaṃ bhavissati, apāpikā kālaṅkiriyā ti, “Chớ sợ Vakkali. Ngươi sẽ chết an lành. Sẽ mạng chung an lành.”

 [45] Cf. Câu-xá 25 (tr. 130b11): Kiều-để-ca 喬底迦, thuộc trường hợp A-la-hán thời ái giải thoát, do độn căn nên nhiều lân thối thất, bèn cầm dao tự sát. Ngay trước khi chết, đắc quả A-la-hán, tức thì nhập niết-bàn. Xem thêm, Tì-bà-sa 62 (tr. 320b9). Xem thêm kinh Đại chánh 1091.

 [46] Hán: viễn ly chi sắc 遠離之色, mọt đám màu xa vời. Pāli: dhūmāyitta, đám khói mờ.

 [47] Pāli: appatiṭṭhitena viññāṇena vakkali kulaputto parinibbuto, Vakkali đã nhập niết bàn với thức vô trụ.

 [48] Xác nhận Bạt-ca-lê đắc quả A-la-hán ngay trước khi chết.

 [49] Đại chánh, kinh 1266. S. 35. 87. Channa.

 [50] Xiển-đà 闡陀.

 [51] Xem kinh 105 (Đại chánh 103).

 [52] Không khiển trách họ đã khiến cho Xiển-đà phải đi đến chỗ tự sát.

 [53] Xác nhận Xiển-đà đắc quả A-la-hán ngay trước khi chết.

 [54] Đại chánh, quyển 37, kinh 1023. Pāli, A. 6.56. Phagguna.

 [55] Phả-cầu-na 叵求那. Pāli: Phagguna.

 [56] Vô thượng ái tận giải thoát 無上愛盡解. Bản Pāli: anuttare upadhisaṅkhaye (cittaṃ vimuttaṃ), (tâm giải thoát) trong sự đoạn tận hữu dư y tối thượng.

 [57] Pāli: ayaṃ  chaṭṭho ānisaṃso, đây là lợi ích thứ sáu.

 [58] Đại chánh, kinh 1024. Pāli, S. 22. 88. Assaji.

 [59] A-thấp-ba-thệ 阿濕波誓. Pāli: Assaji.

 [60] Xem kinh Đại chánh 1265 ở sau. Nhưng trong kinh đó không nói đến ba thọ. Xem kinh 105 (Đại chánh 103).

 [61] Hán: biến hối 變悔. Pāli: kacci te assaji na kiñci kukkccaṃ na koci vippaṭisāro ti, “Ngươi không có điều gì hối tiếc, phân vân chăng?”

 [62] Hán: thân tức lạc chánh thọ 身息樂正受. Pāli: passambhetvā kāyasaṅkhāre: làm cho thân hành êm dịu (an chỉ).

 [63] Kinh Sai-ma-ca 差摩迦修多羅. Xem kinh 105 (Đai chánh 103) kinh Sai-ma, Tụng I. Ngủ uẩn. 1. Tương ưng Namư uẩn. Ấn Thuận Hội biên, kinh 13362, “ 50. Tương ưng Bệnh.” Co tên kinh, nhưng không có nội dung.

 [64] Đại chánh, kinh 1025.  Pāli, S.35.74. Gilāna.

 [65] Xem kinh 105 (Đại chánh 103).

 [66] Xem cht. kinh 1024 trên.

 [67] Để bản:Chơn bảo vật真寶物. TNM: chân thật vật.

 [68] Vô úy; đây nên hiểu là tự tin, không do dự.

 [69] Thọ đệ nhất ký 受第一記.; đây chỉ sự xác nhận đã chứng quả A-la-hán.

 [70] Đại chánh, kinh 1026. Pāli, S. 35. 75. Gilāna.

 [71] Nguyên trong bản Hán, văn lặp lại, trùng lặp nhiều lần. Vì không thấy có khác biệt gì trong các đoạn trùng lặp đó, ngờ là người chép có sự nhầm lẫn. Đây lược bỏ.

 [72] Trong bản chép là chỉ 止. Sữa lại là chánh . Cf. M. i. 12: acchecchi taṇhaṃ, vivattayi saṃyojanaṃ, sammā mānābhisamayā antamakāsi dukkhassā, cắt đứt ái, hủy diệt kết sử, chân chánh hiện quán mạn, đoạn tận khổ biên. Sớ giải: trong A-la-hán đạo (arahattamaggo), do sở hành mà quán chiếu mạn rồi do kiến mà đoạn trừ mạn, tức là kiến hiện quán (dassnābhisamayā) và đoạn hiện quán (pahānābhisamayā) đối với mạn (māna).

 [73] Đại chánh, kinh 1027.

 [74] Đại chánh, kinh 1028. Pāli, S. 36. 7. Gelañña.

 [75] Già-lê-lệ giảng đường 伽梨隸講堂. Pāli: Gilānasālā, bệnh xá.

 [76] Đãi thời 待時. Pāli: kālaṃ āgaccheyya, thời gian có thể đến (có thể đến thời): chuẩn bị chờ sự chết đến.

 [77] Hán: tùy thuận chi giáo 隨順之教, hay tùy thuận giáo, tức sự giáo huấn hay giáo giới. Pāli: anusāsanī.

 [78] Tham dục sử, tức dục tùy miên.

 [79] Nghĩa là, không còn tùy miên, tức tùy tùng miên phục: không còn nằm phục hay tiềm phục.

 [80] Đại chánh, kinh 1029. Pāli, S. 36. 8. Gelañña.

 [81] Xem cht. kinh 1028.

 [82] Đại chánh, kinh 1030.

 [83] Đại chánh, kinh 1031. Pāli, S.55. 27.  Anāthapiṇḍika.

 [84] Đại chánh, kinh 1032. Pāli, S. 55. 26. Anāthapiṇḍika; cf. M. 143. Anāthapiṇḍikovāda. Hán, No 125(51.8).

 [85] Hán: khiếp liệt 怯劣. Pāli: olīyasi … saṃsīdasi…? “ Ông đang bám chặt (sự sống) chăng? đang chìm xuống (sự chết) chăng?

 [86] Đại chánh, kinh 1033. Bản Hán, Ấn Thuận phân thành hai kinh: 13371, 13372. Pāli, S.55.53. Dhammadinna.

 [87] Đại chánh, kinh 1034. Pāli, S. 55. 3. Dīghāvu.

 [88] Trường Thọ đồng tử  長壽童子. Pāli: Dīghāvu upasako, ưu-bà-tắc Trường Thọ.

 [89] Thọ Đề 樹提. Pāli: Jotika, cha của Dīghāvu. Bản Hán nói là ông nội.

 [90] Minh phần tưởng 明分想, sáu tưởng dẫn đến minh (ba minh). Pāli: cha vijjābhāgiye.

 [91] Đại chánh, kinh 1035.

 [92] Bà-tẩu trưởng giả 婆藪長者.

 [93] Đạt-ma-đề-na 達摩提那. Tức Đạt-ma-đề-ly, xem kinh 1033 trên.

 [94] Đại chánh, kinh 1036. Pāli, S. 55. 39. Kāḷigodha.

 [95] Sa-la họ Thích 釋氏沙羅. Pāli: Kaḷīgodhā Sākyāni, Thích nữ Kaḷīgodhā.

 [96] Năm hỷ xứ 五喜處.

 [97] Đại chánh, kinh 1037.

 [98] Da-thâu 耶輸.

 [99] Xem kinh  Đại chánh 1035 trên.

 [100] Đại chánh, kinh 1038. Pāli, S. 47. 30. Mānadinna.

 [101] Ma-na-đề-na 摩那提那. Pāli: Mānadinno gahapati.

 [102] Bản Pāli: bệnh nặng.

 [103] A-lê阿梨. Pāli ayya (Skt. ārya), kỉnh ngữ, người dưới thưa gửi người bề trên.