31. Tương Ưng ma, Kinh 988-1007

31. TƯƠNG ƯNG MA [1]

KINH 988. TRƯỜNG THỌ [2]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở giữa bãi tha ma trong rừng Lạnh, [3] thành Vương Xá. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Mệnh sống rất ngắn, chỉ thoáng đã trở thành đời sau. Vậy hãy nên siêng tu tập pháp thiện, tu các phạm hạnh. Không có gì sinh mà không chết. Nhưng người thế gian không siêng năng, nổ lực chuyên tu pháp thiện, tu hiền, tu nghĩa.”

Lúc ấy, ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn Cù-đàm đang trú giữa nghĩa địa trong rừng Lạnh, thành Vương Xá, vì các Thinh văn nói pháp như vậy. Mệnh sống con người rất ngắn, ... cho đến không tu hiền, tu nghĩa. Nay ta nên đến làm nhiễu loạn.’

Ma Ba-tuần liền hóa thành một thiếu niên, đến trước Phật mà nói kệ:

Thường bức bách chúng sanh.

Nhưng người đời trường thọ;

 [284c]Mê say tâm phóng dật,

Cũng không đến chỗ chết.

Bấy giờ, Thế Tôn tự nghĩ: ‘đây là ác ma đến làm não loạn.’ Liền nói kệ:

Thường bức bách chúng sanh,

Mạng sống thật ngắn ngủi.

Nên tinh tấn cần tu,

Như cứu lửa cháy đầu.

Chớ lười dù chốc lát,

Khiến ma chết chợt đến.

Biết ngươi là ác ma,

Mau đi khỏi nơi đây.

Thiên ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn Cù-đàm đã biết tâm ta.’ liền hổ thẹn, ưu sầu, biến mất.

KINH 989. THỌ MẠNG [4]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở giữa nghĩa địa trong rừng Lạnh, tại thành Vương Xá. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Tất cả hành là vô thường, tất cả hành không thường hằng, bất an, là pháp biến dịch, khôngnghỉ ngơi [5] ... cho đến nên đình chỉ tất cả hành hữu vi, yểm ly, không ưa thích, giải thoát.”

Lúc ấy, Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Nay Sa-môn Cù-đàm đang trú trong rừng Lạnh, tại thành Vương Xá, vì các Thinh văn nói pháp như vầy: ‘Tất cả hành là vô thường, không thường hằng, bất an, là pháp biến dịch, không nghỉ ngơi ... cho đến. Hãy đình chỉ tất cả hữu vi, yểm ly, không ưa thích, giải thoát.’ Ta sẽ đến đó làm nhiễu loạn.” Liền hóa ra một thiếu niên, đi đến chỗ Phật, đứng trước Phật mà nói kệ:

Mạng sống qua ngày đêm,

Không lúc nào cùng tận.

Mạng sống đến rồi đi,

Giống như bánh xe lăn.

Bấy giờ, Thế Tôn tự nghĩ: ‘Đó là Ác ma muốn làm nhiễu loạn.’ Liền nói kệ:

Ngày đêm luôn đổi dời ,

Mạng cũng theo đó giảm.

Mạng người tạm tiêu mất,

Giống như dòng nước nhỏ.

Ta biết ngươi ác ma,

Hãy tự tiêu mất đi.

Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn Cù-đàm đã biết tâm ta.’ liền hổ thẹn, ưu sầu, biến mất.

KINH 990. MA PHƯỢC [6]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, tại thành Vương Xá. Bấy giờ, ban đêm, Thế Tôn dậy đi kinh hành. Đến cuối đêm, Thế Tôn rửa chân, [285a] rồi vào phòng ngồi ngay thẳng, chuyên tâm cột niệm.

Khi ấy, Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Giờ Sa-môn Cù-đàm đang ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Ban đêm Thế Tôn dậy đi kinh hành. Đến cuối đêm rửa chân, vào phòng ngồi ngay thẳng, chuyên tâm cột niệm thiền tư. Bây giờ, ta sẽ đến làm nhiễu loạn.” Nó liền hóa ra một thiếu niên, đứng trước Phật mà nói kệ:

Tâm ta ở không,

Cầm dây dài buông xuống;

Nhằm muốn trói Sa-môn,

Khiến ngươi không thoát được.

Bấy giờ, Thế Tôn nghĩ: ‘Ác ma Ba-tuần muốn làm nhiễu loạn.’ Liền nói kệ:

Ta nói ở thế gian,

Năm dục, ý thứ sáu;

Ta đã lìa tất cả,

Tất cả khổ đã dứt.

Ta đã ly dục kia,

Tâm ý thức cũng diệt;

Ba-tuần, Ta biết ngươi,

Mau đi khỏi nơi đây.

Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn Cù-đàm đã biết tâm ta.’ Liền hổ thẹn, ưu sầu, biến mất.

KINH 991. MIÊN [7]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, vào lúc ban đêm Thế Tôn dậy đi kinh hành. Đến cuối đêm, Thế Tôn rửa chân, rồi vào phòng, nằm nghiêng bên phải, cột niệm vào tướng ánh sáng, chánh niệm, chánh trí, nghĩ tưởng đến thức.

Khi ấy, Ma Ba-tuần nghĩ: “Giờ Sa-môn Cù-đàm đang ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, tại thành Vương Xá... cho đến nghĩ tưởng đến thức. Bây giờ, ta sẽ đến để gây trở ngại.” Nó liền hóa ra một thiếu niên, đứng trước Phật mà nói kệ:

Ngủ sao, vì sao ngủ?

Đã diệt, sao còn ngủ?

Nhà trống, làm sao ngủ?

Ra được, sao lại ngủ?

Bấy giờ̀, Thế Tôn nghĩ: ‘Ác ma Ba-tuần muốn làm nhiễu loạn.’ Liền nói kệ đáp:

Vì lưới ái nên nhiễm.

Không ái, ai kéo đi?

Hết tất cả hữu dư,

Chỉ Phật được ngủ yên.

Ngươi Ác ma Ba-tuần,

Nói những gì ở đây?

Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn Cù-đàm đã biết tâm ta.’ Liền hổ thẹn, [285b] ưu sầu, biến mất.

KINH 992. KINH HÀNH [8]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật, tại thành Vương Xá. Bấy giờ, vào lúc ban đêm, trời mưa bụi, có tia chớp lóe lên. Thế Tôn ra khỏi phòng, đi kinh hành.

Khi ấy, Ma Ba-tuần nghĩ: “Giờ Sa-môn Cù-đàm đang ở trong núi Kỳ-xà-quật, tại thành Vương Xá. Đêm tối, trời mưa bụi, vài tia chớp lóe lên, Sa-môn Cù-đàm ra khỏi phòng, đi kinh hành. Bây giờ, ta sẽ đến để gây trở ngại.” Nó cầm một khối đá to, đùa giỡn trên hai tay. Khi đến trước Phật, nó bóp nát thành bụi nhỏ.

Bấy giờ, Thế Tôn nghĩ: ‘ Ác ma Ba-tuần muốn làm nhiễu loạn.’ Liền nói kệ:

Dù núi Kỳ-xà-quật,

Trước Ta, bị bóp nát;

Thì chư Phật giải thoát,

Cũng không động mảy lông.

Giả sử trong bốn biển,

Khiến tất cả núi non;

Và thân tộc phóng dật,

Khiến nát thành vi trần,

Cũng không làm lay động,

Một sợi tóc Như Lai.

Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn Cù-đàm đã biết tâm ta.’ Trong lòng ưu sầu, liền biến mất.

KINH 993. ĐẠI LONG [9]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật, tại thành Vương Xá. Bấy giờ, ban đêm, Thế Tôn dậy đi kinh hành. Cho đến cuối đêm, Thế Tôn rửa chân, rồi vào phòng, thân ngồi ngay thẳng, cột niệm ở trước.

Khi ấy, Ma Ba-tuần nghĩ: “Giờ Sa-môn Cù-đàm đang ở trong núi Kỳ-xà-quật, tại thành Vương Xá. Ban đêm Thế Tôn dậy đi kinh hành cho đến cuối đêm, rửa chân vào phòng, thân ngồi ngay thẳng, cột niệm ở trước. Bây giờ, ta sẽ đến để gây trở ngại.” Nó liền hóa ra con rồng to, [10] quấn quanh Phật bảy vòng, cất đầu đến trên đảnh Phật, thân như chiếc thuyền to, đầu như cái buồm lớn, mắt như lò đồng, lưỡi như điện chớp, hơi thở dữ dội như tiếng sấm. IKhi ấy, Thế Tôn nghĩ: ‘ Ác ma Ba-tuần muốn làm nhiễu loạn.’ Liền nói kệ:

Giống như ngôi nhà trống,

Tâm Mâu-ni rỗng lặng;

Chuyển xoay ở trong đó,

Thân Phật cũng như vậy.

Vô lượng rồng hung ác,

Muỗi, ruồi, rệp, côn trùng;

Tụ lại ăn thân kia,

Cũng không động lông, tóc.

Dù phá nát hư không,

Nghiêng úp cả đại địa;

 [285c]Tất cả loài chúng sanh,

Đều đến gây kinh sợ.

Gươm, mâu, đao, tên bén,

Cũng đến hại thân Phật;

Mọi bạo hại như vậy ,

Cũng không tổn mảy lông.

Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn Cù-đàm đã biết tâm ta.’ Trong lòng nó cảm thấy ưu sầu, liền biến mất.

KINH 994. THỤY MIÊN [11]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong thất đá, núi Tì-bà-la trong rừng Thất diệp thọ, [12] thành Vương Xá. Bấy giờ, ban đêm, Thế Tôn dậy, nơi đất trống hoặc ngồi, hoặc đi kinh hành. Đến cuối đêm, Thế Tôn rửa chân, rồi vào thất, nằm yên nghỉ, nghiêng hông bên phải sát đất, hai chân chồng lên nhau, cột niệm vào tướng ánh sáng, chánh niệm, chánh trí, nghĩ tưởng đến thức.

Khi ấy, Ma Ba-tuần nghĩ: ‘Giờ Sa-môn Cù-đàm đang ở trong  thất đá, núi Tì-bà-la trong rừng Thất diệp thọ, thành Vương Xá. Bấy giờ, ban đêm, Thế Tôn dậy, nơi đất trống, hoặc ngồi, hoặc đi kinh hành. Đến cuối đêm, rửa chân, vào thất, nằm yên nghỉ, nghiêng hông bên phải sát đất, hai chân chồng lên nhau, cột niệm vào tướng ánh sáng, chánh niệm, chánh trí, nghĩ tưởng đến thức. Bây giờ, ta sẽ đến để gây trở ngại.’ Ma Ba-tuần hóa ra một thiếu niên đến đứng trước Phật, mà nói kệ:

Nhân vì ta nên ngủ?

Hay là vì đời sau?

Có nhiều tiền, của báu,

Cớ sao chọn ở rừng?

Một mình không bè bạn,

Mà mê đắm ngủ nghỉ?

Bấy giờ, Thế Tôn tự nghĩ: ‘ Ác ma Ba-tuần muốn làm nhiễu loạn.’ liền nói kệ :

Không bởi ngươi mà ngủ,

Không phải vì đời sau.

Cũng không nhiều tiền của.

Chỉ gom báu vô ưu.

Vì thương xót thế gian,

Nên nằm nghiêng hông phải;

Thức cũng không nghi hoặc,

Ngủ cũng không sợ hãi.

Hoặc ngày, hoặc lại đêm,

Không tăng cũng không giảm.

Vì thương chúng sanh ngủ,

Nên không có tổn giảm.

Dù dùng trăm mũi nhọn,

Xuyên thân, luôn khuấy động;

Vẫn được ngủ an ổn,

Vi lìa gươm bên trong.

Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Sa-môn Cù-đàm đã biết tâm ta.’ trong lòng [286a] cảm thấy ưu sầu, liền biến mất.

KINH 995. CÙ-ĐÊ-CA [13]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở nơi thất đá núi Tỳ-bà-la trong rừng Thất diệp thọ, thành Vương Xá. Bấy giờ, có Tôn giả Cù-đề-ca [14] cũng ở thành Vương Xá, trong hang Đá Đen [15] bên sườn núi Tiên nhơn, [16] một mình tư duy, tu hạnh không phóng dật, tự được nhiều lợi ích, tự thân chứng ngộ thời ái tâm giải thoát, [17]  nhiều lần bị thối chuyển. Lần thứ nhất, thứ hai, ba, bốn, năm, sáu, trở đi, trở lại; sau khi tự thân tác chứng tâm giải thoát nhất thời, chảng bao lâu lại thối chuyển.

Tôn giả Cù-đề-ca tự nghĩ: “Một mình ta ở chỗ vắng tư duy, hạnh không phóng dật, tinh tấn tu tập để tự được lợi ích; khi tự thân chứng ngộ tâm thời ái giải thoát, mà nhiều lần lại còn thối chuyển, cho đến sáu lần vẫn còn thối chuyển lại. Bây giờ, ta nên dùng đao tự sát chớ để cho thối chuyển lần thứ bảy.” [18]

Khi ấy, ma Ba-tuần tự nghĩ: “Hiện tại Sa-môn Cù-đàm đang ở nơi thất đá núi Tỳ-bà-la trong rừng Thất diệp thọ, tại thành Vương Xá, có đệ tử là Cù-đề-ca cũng ở thành Vương Xá, trong hang Đá đen bên sườn núi Tiên nhơn, một mình ở chỗ vắng, chuyên tinh tư duy, khi tự thân tác chứng thời ái tâm giải thoát, qua sáu lần thối chuyển. Ông tự nghĩ: ‘Ta đã qua sáu lần phản thối mới trở lại được, chớ để cho thối chuyển lần thứ bảy. Ta hãy dùng đao tự sát chớ để thối chuyển lần thứ bảy.’ Nếu Tỳ-kheo kia dùng đao tự sát, ta chớ để tự sát, mà ra khỏi cảnh giới của ta. Bây giờ ta nên đến báo Đại sư ông ấy.”

Bấy giờ, ma Ba-tuần cầm cây đàn tỳ bà bằng lưu ly, đến chỗ Thế Tôn, vừa khảy đàn vừa nói kệ:

Đại trí đại phương tiện,

Tự tại thần lực lớn;

Được đệ tử sáng chói,

Mà nay muốn chết đi.

Đại Mâu-ni nên ngăn,

Chớ để Ông tự sát;

Sao để đệ tử Phât

Theo học Chánh pháp luật,

Học  nhưng không chứng đắc,

Chỉ muốn chết cho xong?

Ma Ba-tuần nói kệ xong, Thế Tôn nói kệ đáp:

Ba-tuần, loài phóng dật,

Vì việc mình mà đến.

Bậc đã được̉ kiên cố,

Thường trụ diệu thiền định.

Ngày đêm chuyên tinh tấn,

Không nghĩ đến tánh mạng.

Thấy ba cõi đáng sợ,

Đoạn trừ ái dục kia.

Đã chiết phục quân ma,

Cù-đề bát-niết-bàn.

Tâm Ba-tuần ưu sầu,

Tỳ bà rơi xuống đất.

Lòng ôm ấp ưu sầu,

Liền biến mất không hiện.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Các ngươi hãy cùng Ta đến hang Đá đen bên sườn núi Tiên nhơn, xem Tỳ-kheo Cù-đề-ca dùng đao tự sát.”

Thế Tôn cùng các Tỳ-kheo đến hang Đá đen bên sườn núi Tiên nhơn, thấy Tỳ-kheo Cù-đề đã tự sát nằm trên đất, bảo các Tỳ-kheo:

“Các ngươi có thấy Tỳ-kheo Cù-đề-ca tự sát, thân thể nằm trên đất không?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thưa vâng Thế Tôn, đã thấy.”

Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Các ngươi có thấy chung quanh thân thể Tỳ-kheo Cù-đê-ca bốc khói đen lan đầy khắp bốn phía không?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, đã thấy.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Đó là ác Ma Ba-tuần ở bên thân thiện nam Cù-đê-ca, đang quanh quẩn tìm thức thần. Nhưng Tỳ-kheo Cù-đê-ca với ̣ tâm vô trụ [19] mà cầm dao tự sát!”

Bấy giờ, Thế Tôn vì Tỳ-kheo Cù-đề-ca thọ ký đệ nhất.

Lúc ấy, Ma Ba-tuần nói kệ:

Trên dưới cùng các phương,

Tìm khắp thần thức kia;

Đều không thấy nơi này,

Cù-đê-ca ở đâu?

Bấy giờ, Thế Tôn lại nói kệ:

Bậc kiên cố như vậy,

Không thể tìm thấy đâu.

Nhổ sạch gốc ân ái,

Cù-đê bát-niết-bàn.

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 996. MA NỮ [20]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật ở dưới gốc cây Bồ-đề, tại làng Uất-tì-la bên bờ sông Ni-liên-thiền, thành đạo chưa lâu. Bấy giờ, Ma Ba-tuần nghĩ: ‘Hiện tại Sa-môn Cù-đàm đang ở dưới cây Bồ-đề, tại làng Uất-tì-la bên bờ sông Ni-liên-thiền, thành đạo chưa lâu. Ta sẽ đến đó làm chướng ngại.’

Ma Ba-tuần hóa ra một thiếu niên, đến trước Phật mà nói kệ:

Một mình vào chỗ vắng,

Thiền tư, tĩnh tư duy;

Đã bỏ nước, tài bảo,

Ở đây lại cầu gì?

Nếu cầu lợi xóm làng,

Sao không gần gũi người?

Đã không gần gũi người,

Rốt cuộc được gì nào?

Thế Tôn tự nghĩ: ‘Ma Ba-tuần muốn làm nhiễu loạn.’ Liền nói kệ:

Đã được tài lợi nhiều,

Tri túc, an tic̣h diệt;

Điều phục bọn quân ma,

Không đắm vào sắc dục.

 Một mình riêng thiền tư,

Nếm vị thiền diệu lạc;

Cho nên không cùng người,

Quanh quẩn gần gũi nhau.

Ma lại nói kệ:

Cù-đàm nếu tự biết,

Đường Niết-bàn an ổn;

Riêng mình lạc vô vi,

Cần gì gượng dạy người?

Phật lại nói kệ đáp:

Ai không bị Ma chế,

Đến hoi bờ bên kia;

Ta giải đáp chơn chánh,

Khiến người đắc Niết-bàn.

Kịp thời,  không phóng dật,

Không bị Ma chế ngự.

Ma lại nói kệ:

Có đá như mỡ đặc,

Con chim muốn đến ăn.

Cuối cùng không ̣được vị,

Trượt mỏ, trở về không.

Nay ta  cũng như chúng,

Uổng nhọc về thiên cung.

Ma nói vậy xong, trong lòng cảm thấy ưu sầu, tâm bỗng tiếc nuối, hối hận, cúi đầu sát đất, dùng ngón tay vẽ lên đất. [21]

Ma có ba người con gái: người thứ nhất tên là Ái Dục, người thứ hai tên là Ái Niệm, người thứ ba tên là Ái Lạc [22] đi đến chỗ Ma Ba-tuần nói kệ:

Cha đang ưu sầu gì?

Con người, đáng gì lo ?

Con dùng dây ái dục,

Trói chúng như điều voi.

Lôi đem đến trước cha,

Tùy ý cha sai khiến.

Ma đáp lại con gái:

Kia đã lìa ân ái,

Không dục nào lôi được;

Đã ra khỏi cảnh Ma,

Cho nên ta ưu sầu.

Bấy giờ, ba con gái Ma từ thân phóng ra ánh sáng lóe lên như những tia chớp trong mây, đến chỗ Phật, [287a] đảnh lễ sát chân Phật, rồi đứng lui qua một bên, bạch Phật:

“Nay con trở về dưới chân Thế Tôn, để giúp đỡ hầu hạ, xin Ngài sai khiến.”

Bấy giờ, Thế Tôn không ngó ngàng đến. Biết Như Lai đã lìa các ái dục, tâm thiện giải thoát. Hai ba phen nói như vậy, sau đó ba gái Ma tự bảo với nhau rằng:

“Đàn ông có những loại ái dục tùy theo  hình tướng. Bây giờ chúng ta mỗi người sẽ biến hóa ra những loại này, thành trăm thứ sắc của đồng nữ, trăm thứ sắc của thiếu nữ mới lấy chồng̉, trăm thứ sắc của phụ nữ chưa sinh, trăm thứ sắc của phụ nữ đã sinh, trăm thứ sắc của phụ nữ trung niên, trăm thứ sắc của phụ nữ đứng tuổi. Hóa ra những loại hình như vậy rồi, chúng ta đi đến Sa-môn Cù-đàm nói rằng: ‘Hôm nay tất cả đều về dưới chân Thế Tôn, hiến dâng cho Ngài sai sử.’”

Bàn bạc với nhau xong, chúng liền biến hóa ra những hình loại như đã nói trên, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, đứng lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế tôn,, bọn chúng con hôm nay về dưới chân Thế Tôn, hiến dâng cho Ngài sai sử.”

Bấy giờ, Thế Tôn cũng không hề để ý đến.

“Pháp của Như Lai là lìa các ái dục.”

Phật lặp lại như vậy ba lần. 

Bấy giờ, ba Ma nữ lại bảo với nhau:

“Nếu đàn ông chưa ly dục mà trông thấy các hình thể tuyệt diệu của chúng ta, tâm sẽ bị mê loạn, dục khí dồn nén bốc lên, lồng ngực muốn vỡ, máu nóng đỏ bừng trên mặt. Nhưng hiện tại Sa-môn Cù-đàm không hề để ý đến chúng ta. Nên biết, Như Lai đã lìa dục, giải thoát, được thiện giải thoát tưởng. Bây giờ chúng ta mỗi người nên nói kệ để cật vấn.”

Ba Ma nữ trở lại trước Phật, đảnh lễ sát chân Phật, đứng lui qua một bên. Thiên nữ Ái Dục liền nói kệ:

Một mình vào chỗ vắng,

Thiền tư, tĩnh tư duy;

Đã bỏ nước, tài bảo,

Ở đây lại cầu gì?

Nếu cầu lợi xóm làng,

Sao không gần gũi người?

Đã không gần gũi người,

Rốt cuộc được gì nào?

Thế Tôn nói kệ đáp:

Đã được tài lợi nhiều,

Tri túc, an tic̣h diệt;

Điều phục bọn quân ma,

Không đắm vào sắc dục.

Một mình riêng thiền tư,

Nếm vị thiền diệu lạc;

Cho nên không cùng người,

Quanh quẩn gần gũi nhau.

Thiên nữ Ái Niệm lại nói kệ:

Tu nhiều thiền diệu gì,

Để thoát dòng ngũ dục?

Lại nhờ phương tiện nào,

Vượt qua biển thứ sáu?

Đối các dục sâu rộng,

Làm sao tu diệu thiền;

Để qua được bờ kia,

Mà không bị ái giữ?

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:

Thân được lạc tịch tĩnh,

Tâm được thiện giải thoát;

Vô vi, không tạo tác,

Chánh niệm không dao động.

Biết rõ tất cả pháp,

Không khởi các loạn giác;

Ái, nhuế, thụy miên, phú,

Tất cả đều đã lìa.

Tu tập nhiều như vậy ,

Thoát khỏi được năm dục;

Như qua biển thứ sáu,

Tất qua được bờ kia.

Tu tập thiền như vậy,

Nơi các dục sâu rộng;

Đều qua được bờ kia,

Không bị chúng giữ lại.

Khi ấy, Thiên nữ Ái Lạc lại nói kệ:

Đã đoạn trừ ân ái,

Chất chưa dục sâu dày;

Người nhiều đời tịnh tín,

Vượt qua được biển dục.

Mở ra trí tuệ sáng,

Vượt qua cảnh tử ma.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:

Đại Phương tiện, rộng độ,

Vào pháp luật Như Lai;

Những người này đã độ,

Người trí còn lo gì?

Bấy giờ, chí nguyện ba Ma nữ chưa được thõa mãn, trở lại chỗ Ma Ba-tuần, cha của chúng̣. Khi ấy Ma Ba-tuần vừa trông thấy các con gái đến, liền nói kệ trêu họ:

Các con, này ba đứa,

Tự khoe mình kham năng;

Toàn thân phóng lửa sáng,

Như lằn chớp trong mây.

Đến chỗ Đại Tinh tấn,

Mỗi người phô sắc đẹp.

Ngược lại đều bị phá,

Như gió lùa bông gòn.

Dùng móng tay phá núi,

Dùng răng cắn  hòn sắt;

Hay muốn dùng tóc, tơ,

Di chuyển hòn núi lớn?

Người đã thoát hoà hiệp,

Mà mong loạn tâm kia.

Muốn buộc dính chân gió,

Khiến trăng rơi giữa không.

 [287c]Dùng tay khuấy biển lớn,

Hà hơi động núi tuyết.

Đã giải thoát hoà hợp

Dễ gì làm dao động.

Ở giữa biển sâu rộng,

Mà tìm đất đặt chân.

Như Lai, đối tất cả,

Hòa hợp tất giải thoát.

Trong biển lớn chánh giác,

Tìm dao động cũng vậy.

Ma Ba-tuần trêu ba cô con gái, rồi biến mất.

KINH 997. TỊNH BẤT TỊNH [23]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật mới thành đạo, ở dưới cây Bồ-đề lớn bên bờ sông Ni-liên-thiền, tại xứ Uất-tì-la. Thiên Ma Ba-tuần nghĩ: ‘Sa-môn Cù-đàm mới thành đạo, đang ở dưới gốc cây Bồ-đề, bên bờ sông Ni-liên-thiền, xứ Uất-tì-la. Nay ta sẽ đến làm chướng ngại.’ Tức thì nó tự biến thân mình thành trăm thứ sắc tịnh và bất tịnh, đi đến chỗ Phật. Từ xa, đức Phật trông thấy một trăm thứ sắc tịnh và bất tịnh của Ma Ba-tuần liền nghĩ: ‘Ác ma Ba-tuần biến trăm thứ sắc tịnh và bất tịnh là muốn làm nhiễu loạn.’ Liền nói kệ:

Lâu dài trong sinh tử,

Làm sắc tịnh bất tịnh;

Vì sao ngươi làm vậy?

Không vượt khổ, bờ kia.

Nếu thân, miệng, và ý,

Không làm chướng ngại người;

Không bị Ma sai sử;

Không bị Ma khống chế.

BIẾT ác ma như vậy,

Ma liền tự biến mất.

Khi ấy ma Ba-tuần nghĩ: ‘Sa-môn Cù-đàm đã biết tâm ta.’ trong lòng cảm thấy ưu sầu, liền biến mất.

KINH 998. KHỔ HÀNH [24]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật mới thành đạo, ở dưới cây Bồ-đề lớn bên bờ sông Ni-liên-thiền, tại xứ Uất-tì-la. Bấy giờ, Thế Tôn một mình ở chỗ yên tĩnh chuyên tâm thiền định tư duy, tự nghĩ như vầy: “Nay Ta khéo thoát ly khổ hạnh. [25] Lành thay! Nay Ta khéo thoát ly khổ hạnh. Ta trước tu chánh nguyện, ngày nay đã được quả Vô thượng Bồ-đề.”

Khi ấy Ma Ba-tuần nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm mới thành Chánh giác, đang ở dưới cây Bồ-đề, tại xứ Uất-tì-la, bên bờ sông Ni-liên-thiền. Nay ta sẽ đến làm chướng ngại.” Nó liền biến thành một thiếu niên, đến trước Phật mà nói kệ:

Chỗ tu đại khổ hạnh,

Thường khiến được thanh tịnh.

 [288a]Nay ngược lại, vất bỏ,

Ở đây tìm những gì?

Muốn cầu tịnh ở đây,

Tịnh cũng không thể được.

Bấy giờ Thế Tôn tự nghĩ: ‘Ma Ba-tuần này muốn làm nhiễu loạn.’ Liền nói kệ:

Biết các tu khổ hạnh,

Thảy đều không có nghĩa;

Hoàn toàn không được ích,

Như cung bật có tiếng. [26]

Giới, định, văn, tuệ, đạo,

Ta đều đã tu tập;

Được thanh tịnh bậc nhất,

Tịnh này không gì hơn.

Khi đó Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘‘Sa-môn Cù-đàm đã biết tâm ta.” Trong lòng nó cảm thấy ưu sầu, liền biến mất.

KINH 999. KHẤT THỰC [27]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở tại làng Sa-la [28] của Bà-la-môn. Bấy giờ, sáng sớm Thế Tôn khóac y, ôm bát vào làng Sa-la khất thực.

Khi ấy Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Nay Sa-môn Cù-đàm sáng sớm khóac y, ôm bát vào làng Sa-la khất thực. Bây giờ ta sẽ đến trước, vào nhà họ, nói với những Gia chủ Bà-la-môn tín tâm, để cho Sa-môn Cù-đàm ôm bát trống ra về.”

Lúc ấy, Ma Ba-tuần chạy theo sau Phật kêu lên:

“Sa-môn! Sa-môn! Không được thức ăn sao?”

Thế Tôn nghĩ: ‘Ác ma Ba-tuần muốn làm não loạn.’ Liền nói kệ:

Ngươi đối với Như Lai

Tự phạm vô lượng tội.

Ngươi bảo rằng Như Lai,

Chịu mọi khổ não ư?

Khi ấy, Ma Ba-tuần nói: “Cù-đàm hãy trở lại làng xóm. Tôi sẽ khiến cho Ngài được thức ăn.”

Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:

Dù thật không có gì,

Vẫn an lạc tự sống;

Như trời Quang âm kia,

Hỷ lạc là thức ăn.

Dù thật không có gì,

Vẫn an lạc tự sống.

Hỷ lạc là thức ăn,

Không nương vào có thân.

Khi đó Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm đã biết tâm ta.” Trong lòng nó cảm thấy ưu sầu, liền biến mất.

KINH 1000. THẰNG SÁCH [29]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Lộc dã, [288b] tại trú xứ của các Tiên nhơn, nước Ba-la-nại. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Ta đã giải thoát dây trói buộc trời, người. Các ngươi lại cũng đã giải thoát dây trói buộc trời, người. Các ngươi nên đi vào nhơn gian, đi qua nhiều chỗ, lợi ích nhiều nơi, an lạc cho trời, người. Không cần bạn đồng hành, mỗi người tự đi riêng. Bây giờ, ta cũng du hành trong nhơn gian, đến trú xứ Uất-tì-la.”

Khi ấy Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm đang ở trong vườn Lộc dã trú xứ của Tiên nhơn, tại nước Ba-la-nại, nói với các Thinh văn như vầy: ‘Ta đã giải thoát dây ràng buộc Ttrời, người. Các ngươi lại cũng đã ̉ ... Các ngươi, riêng mỗi người đi vào nhơn gian giáo hóa, ... cho đến Ta cũng du hành trong nhơn gian, đến trú xứ Uất-tỳ-la.’ Bây giờ, ta sẽ đến làm chướng ngại.” Nó liền biến thành một thiếu niên đứng trước Phật mà nói kệ:

Không thoát, nghĩ tưởng thoát,

Tự hô giải thoát rồi;

Lại buộc thêm càng chặt,

Nay ta quyết không tha.

Bấy giờ Thế Tôn tự nghĩ: “Ma Ba-tuần muốn làm nhiễu loạn.” Liền nói kệ:

Ta thoát tất cả rồi,

Mọi trói buộc trời, người;

Đã biết ngươi Ba-tuần,

Hãy tự diệt, mất đi.

Khi đó Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm đã biết tâm ta.” Trong lòng nó cảm thấy ưu sầu, liền biến mất.

KINH 1001. THUYẾT PHÁP [30]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở tại nhà Thạch Chủ [31] họ Thích, trong làng họ Thích. Bấy giờ, trong làng Thạch Chủ họ Thích có nhiều người chết vì bệnh dịch. Dân chúng mọi nơi hoặc nam hoặc nữ này, từ bốn phương đến thọ trì tam quy. Những bệnh nhân nam nữ hoặc lớn hoặc nhỏ này đều là những người nhân đến tự xưng tên họ: ‘Chúng con tên .... xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tỳ-kheo Tăng.’ Cả thôn cả ấp đều như vậy.

Bấy giờ, Thế Tôn vì hàng Thinh văn mà ân cần thuyết pháp. Lúc ấy, những người tín tâm quy y Tam Bảo đều được sinh vào trong cõi trời, hay người. Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Hiện tại, Sa-môn Cù-đàm đang ở trong nhà Thạch Chủ họ Thích trong làng họ Thích ân cần thuyết pháp cho bốn chúng. Bây giờ, ta hãy đến làm chướng ngại.” Nó liền biến thành một thiếu niên đến đứng trước Phật nói kệ:

Vì sao siêng thuyết pháp,

Giáo hóa cho mọi người?

 [288c]Trái nghịch, không trái nghịch:

Không khỏi bị xua đuổi

Vì còn bị trói buộc,

Nên vì họ thuyết pháp. [32]

Bấy giờ, Thế Tôn nghĩ: ‘Ác ma Ba-tuần muốn làm nhiễu loạn.’ Liền nói kệ:

Dạ-xoa, ngươi nên biết,

Chúng sanh sanh tập quần;

Những người có trí tuệ,

Ai mà không thương xót?

Vì có lòng thương xót,

Không thể không giáo hóa;

Thương xót mọi chúng sanh,

Lẽ tự nhiên như vậy. [33]

Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm đã biết tâm ta.” Trong lòng nó cảm thấy ưu sầu, liền biến mất.

KINH 1002. TÁC VƯƠNG [34]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở tại nhà Thạch Chủ họ Thích, trong làng họ Thích. Bấy giờ, Thế Tôn một mình ở chỗ yên tĩnh, thiền định tư duy, tự nghĩ: “Có thể nào làm vua mà không sát sinh, không khiến người sát sinh, một mực thi hành chánh pháp, mà không thi hành phi pháp chăng?”

Khi ấy Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Hiện tại, Sa-môn Cù-đàm đang ở trong nhà Thạch Chủ họ Thích trong làng họ Thích, một mình ở chỗ yên tĩnh, thiền định tư duy, tự nghĩ: ‘Có thể nào làm vua mà không sát sinh, không khiến người sát sinh, một mực thi hành chánh pháp, mà không thi hành phi pháp chăng?’ Bây giờ, ta hãy đến đó vì họ mà nói pháp. Liền biến thành một thiếu niên đến đứng trước Phật nói rằng̣:

“Như vậy, Thế Tôn ! Như vậy, Thiện thệ ! Có thể được làm vua mà  không sát sinh, không khiến người sát sinh, một mực thi hành chánh pháp, không thi hành phi pháp. Thế Tôn, nay hãy làm vua ! Thiện thệ, nay hãy làm vua ! Có thể sẽ được như ý.”

Bấy giờ Thế Tôn nghĩ: “Ác ma Ma Ba-tuần muốn làm nhiễu loạn.” Nó liền nói với Ma rằng:

“Ma Ba-tuần, vì sao ngươi nói: ‘Thế Tôn, hãy làm vua ! Thiện thệ, hãy làm vua! Có thể sẽ được như ý’?”

Ma bạch Phật:

“Chính tôi nghe từ Phật nói như vầy: ‘Nếu bốn như ý túc được tu tập, tu tập nhiều rồi, thì muốn khiến cho núi Tuyết chúa biến ra vàng ròng tức thì làm được, không khác.’ Nay, Thế Tôn đã có bốn như ý túc, tu tập, tu tập nhiều, có thể khiến cho núi Tuyết chúa biến ra vàng ròng như ý, không khác. Cho nên tôi bạch: ‘Thế Tôn, hãy làm vua! Thiện thệ, hãy làm vua! Có thể sẽ được như ý.”

Phật bảo Ba-tuần:

“Ta không có tâm muốn làm vua. [289a] Vì sao phải làm? Ta cũng không có tâm muốn núi Tuyết biến ra vàng ròng. Tại sao phải biến?”

Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:

Dù thật có vàng ròng,

Giống như núi Tuyết chúa;

Một người được vàng này,

Cũng còn không biết đủ.

Cho nên người trí tuệ,

Vàng đá coi như nhau.

Khi đó Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm đã biết tâm ta.” Trong lòng nó cảm thấy ưu sầu, liền biến mất.

KINH 1003. CHÚNG ĐA [35]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở tại nhà Thạch Chủ họ Thích, trong làng họ Thích. Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo tụ tập ở nhà cúng dường để may y.

Lúc đó, Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Hiện nay Sa-môn Cù-đàm đang ở tại nhà Thạch Chủ họ Thích, trong làng họ Thích. Có số đông  các Tỳ-kheo tụ tập ở nhà cúng dường để may y. Bây giờ, ta nên đến làm chướng ngại.’ Nó liền biến thành một thanh niên Bà-la-môn, quấn búi tóc to, mặc áo da thú, tay cầm gậy cong, đến nhà cúng dường. Đứng im lặng trước chúng Tỳ-kheo, trong giây lát, nó nói với các Tỳ-kheo:

“Các ông tuổi trẻ xuất gia, da trắng tóc đen, tuổi đang lúc sung sức; nên hưởng thụ ngũ dục, trang điểm tự lạc. Vì sao trái nghịch thân tộc, khiến họ khóc lóc chia lìa, chí tín không nhà, xuất gia học đạo? Tại sao lại phải bỏ cái lạc hiện tại mà đi tìm cái lạc phi thời của đời khác?”

Các Tỳ-kheo nói với Bà-la-môn:

“Chúng tôi không bỏ cái lạc hiện tại mà đi tìm cái lạc phi thời của đời khác, Nhưng là bỏ cái lạc phi thời để thành tựu cái lạc hiện tại.”

Ma Ba-tuần lại hỏi:

“Thế nào là bỏ cái lạc phi thời để thành tựu cái lạc hiện tạ?”

Tỳ-kheo đáp:

“Như Thế Tôn đã dạy: ‘Cái lạc của đời khác thú vị ít mà khổ nhiều, lợi ít mà hại nhiều.’ Thế Tôn đã nói: ‘Cái lạc hiện tại là xa lìa các nhiệt não, không đợi thời tiết, có thể tự thông đạt, duyên vào tự tâm mạ̀ giác tri.’ Này Bà-la-môn, đó gọi là cái lạc hiện tại.”

Khi ấy Bà-la-môn ấm ớ, lắc đầu ba lần, cắm gậy xuống đất rồi biến mất.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo sinh lòng sợ hãi, lông trong người dựng đứng, tự hỏi: ‘Đó là hạng Bà-la-môn nào, đến đây rồi biến mất?’ Họ liền đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo chúng con đang ở nhà cúng dường để may y. Có một thanh niên Bà-la-môn quấn búi tóc to, đến chỗ chúng con nói rằng: ‘Các ông tuổi trẻ xuất gia ... Nói đầy đủ như trên cho đến: ấm ớ lắc đầu ba lần, cắm gậy xuống đất biến mất. Chúng con sinh lòng sợ hãi, lông trong người dựng đứng. Đó là hạng Bà-la-môn nào mà đến đây rồi biến mất?”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Đó không phải là Bà-la-môn, là Ma Ba-tuần đến chỗ các ngươi, muốn nhiễu loạn.”

Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:

Phàm sanh các khổ não,

Đều do nơi ái dục.

Biết đời là kiếm nhọn,

Ai còn ưa thích dục?

Biết thế gian hữu dư,

Tất cả là kiếm nhọn;

Cho nên người trí tuệ,

Phải luôn tự điều phục.

Tích tụ vàng ròng nhiều,

Giống như núi Tuyết chúa;

Chỉ một người thọ dụng,

Ý còn không biết đủ.

Cho nên người trí tuệ,

Phải tu quán bình đẳng.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1004. THIỆN GIÁC [36]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở tại nhà Thạch Chủ họ Thích, trong làng họ Thích. Bấy giờ, có Tôn giả Thiện Giác [37] sáng sớm khóac y, ôm bát vào làng Thạch Chủ họ Thích khất thực. Sau khi khất thực, ông trở về tinh xá, cất y bát, rửa chân, cầm tọa cụ vắt lên vai phải, vào trong rừng ngồi dưới một bóng cây, nhập chánh thọ ban ngày, tự nghĩ: “Ta được đièu lợi ích! Đã xuất gia học đạo ở trong chánh pháp luật. Ta được đièu lợi ích! Đã may mắn gặp Đại sư Như Lai Đẳng Chánh giác. Ta được đièu lợi ích! Đã được ở trong đại chúng phạm hạnh, trì giới đầy đủ, đức độ, hiền thiện chân thật. Nay ta sẽ được mạng chung một cách an lành. Ở đời vị lai cũng được an lành.”

Khi ấy Ma Ba-tuần tự nghĩ: ‘Hiện nay, Sa-môn Cù-đàm đang ở nhà Thạch Chủ làng họ Thích, có đệ tử Thanh văn tên là Thiện Giác, khóac y, ôm bát ... nói đầy đủ như trên, cho đến sẽ được mạng chung một cách an lành. Ở đời vị lai cũng được an lành. Giờ ta sẽ đến làm chướng ngại.’ Nó liền hóa thân to lớn, sức lực khỏe mạnh, ai thấy cũng sợ. Sức mạnh này có thể lật úp đại địa, rôi đi đến chỗ Tỳ-kheo Thiện Giác.

Tỳ-kheo Thiện Giác vừa trông thấy thân to lớn, sức lực khỏe mạnh, liền sanh lòng sợ hãi, từ chỗ ngồi đứng dậy đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân, ngồi lui qua  [289c] một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, sáng sớm con khóac y, ôm bát ... nói đầy đủ như trên cho đến sẽ được mạng chung một cách an lành. Ở đời vị lai cũng được an lành. Con thấy có người thân to lớn, sức lực dũng mãnh có thể lay động quả đất. Thấy vậy, trong lòng con sinh sợ hãi. Sợ hãi đến dựng đứng cả lông!”

Phật bảo Thiện Giác:

“Đó không phải là người thân to lớn, là Ma Ba-tuần muốn làm nhiễu loạn. Ngươi hãy đi trở lại, nương vào dưới gốc cây tu tập tam-muội như trước, động tác Ma kia, để nhờ đó thoát khổ.”

Khi ấy Tôn giả Thiện Giác liền trở về chỗ cũ. Sáng sớm, khóac y ôm bát vào nhà Thạch Chủ, làng họ Thích khất thực; khất thực xong trở về tinh xá. Nói đầy đủ như trên, ... cho đến sẽ được mạng chung một cách an lành. Ở đời vị lai cũng được an lành.

Lúc ấy, Ma Ba-tuần lại nghĩ: ‘Hiện nay Sa-môn Cù-đàm đang ở nhà Thạch Chủ, làng họ Thích. Có đệ tử Thanh văn tên là Thiện Giác khóac y, ôm bát. Nói đầy đủ như trên, ... cho đến sẽ được mạng chung một cách an lành. Ở đời vị lai cũng được an lành.  Bây giờ, ta sẽ đến làm chướng ngại.’ Nó lại hóa ra thân to lớn, sức dũng mãnh, có thể lay động quả đất, đến đứng trước Thiện Giác. Tỳ-kheo Thiện Giác vừa trông thấy Ma đi đến, liền nói kệ:

Ta chánh tín không nhà,

Để xuất gia học đạo;

Nơi Phật, vô giá bảo, [38]

Chuyên buộc tâm chánh niệm.

Mặc ngươi hóa hình sắc,

Tâm ta không dao động.

Biết ngươi là huyễn hóa,

Từ đây hãy mất đi.

Khi đó Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm đã biết tâm ta.” Trong lòng nó cảm thấy ưu sầu, liền biến mất.

KINH 1005. SƯ TỬ [39]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Lộc dã,  tại trú xứ của các Tiên nhơn, tại nước Ba-la-nại. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Thanh văn của Như Lai rống lên tiếng rống sư tử, nói là: Đã biết! Đã biết điều chưa biết! Thanh văn của Như Lai đã biết những pháp gì; mà do đã biết nên rống lên tiếng rống sư tử, rằng ‘Thánh đế Khổ, Thánh đế về sự tập khởi Khổ, Thánh đế về sự diệt tận Khổ, Thánh đế về con đường đưa đến diệt Khổ.?”

Khi ấy Thiên Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm ở trong vườn Lộc dã, chỗ ở của Tiên nhơn, tại nước Ba-la-nại, vì các Thanh văn thuyết pháp, .... cho đến đã biết bốn Thánh đế. Bây giờ ta hãy đến làm chướng ngại.” Nó liền hóa ra một thiếu niên, đứng trước Phật nói kệ:

 [290a]Vì sao giữa đại chúng,

Sư tử rống, không sợ;

Bảo rằng:’ không ai địch’,

Mong điều phục tất cả?

Bấy giờ Thế Tôn nghĩ: ‘Ác ma Ba-tuần muốn làm nhiễu loạn.’ Liền nói kệ:

Như Lai đối tất cả,

Phương tiện sư tử rống

Chánh pháp luật sâu xa,

Nơi pháp không sợ hãi.

Nếu người có trí tuệ,

Cớ sao còn lo sợ?

Khi đó Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm đã biết tâm ta.” Trong lòng cảm thấy ưu sầu, liền biến mất.

KINH 1006. BÁT [40]

Tôi nghe như vầy:

Mốt thời đức Phật trú tại thành Vương Xá, trong cánh đồng trống nơi mà nhiều người dẫm đạp, giảng pháp cho năm trăm Tỳ-kheo. Khi ấy có năm trăm bình bát để giữa sân.

Bấy giờ, Thế Tôn lại vì năm trăm Tỳ-kheo nói về năm thủ uẩn là pháp sinh diệt. Khi ấy Thiên ma Ba-tuần nghĩ: ‘Sa-môn Cù-đàm đang ở tại thành Vương Xá, trong cánh đồng trống nơi mà nhiều người dẫm đạp, giảng pháp cho năm trăm Tỳ-kheo ... cho đến nói về năm thủ uẩn là pháp sinh diệt.’ Bây giờ ta nên đến làm chướng ngại.” Nó liền hóa ra một con trâu lớn, đi đến chỗ Phật, vào ngay chỗ để năm trăm bình bát. Các Tỳ-kheo vì muốn bảo vệ các bình bát, liền đuổi đi.

Lúc bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Đó không phải là trâu, là Ma Ba-tuần muốn làm nhiễu loạn.” Ngài liền nói kệ:

Sắc, thọ, tưởng, hành, thức,

Không phải ngã, ngã sở;

Nếu biết nghĩa chân thật,

Không đắm trước nơi chúng.

Tâm không đắm trước pháp,

Thoát khỏi sắc ràng buộc;

Thấu rõ khắp mọi nơi,

Không trụ cảnh giới Ma.

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1007. NHẬP XỨ [41]

Tôi nghe như vầy:

Mốt thời đức Phật trú tại thành Vương Xá, trong cánh đồng trống nơi mà nhiều người dẫm đạp, cùng với sáu trăm Tỳ-kheo. Bấy giờ, Thế Tôn lại vì các Tỳ-kheo nói về sáu xúc nhập xứ, [42] sáu xúc tập, sáu xúc diệt. Khi ấy Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm ở tại thành Vương Xá, trong cánh đồng trống nơi mà nhiều người dẫm đạp, cùng với sáu trăm Tỳ-kheo, đang giảngcho các Tỳ-kheo về sáu xúc nhập xứ, nói đây là pháp tập, đây là pháp diệt. Bây giờ ta nên đến làm chướng ngại.” Nó liền hóa ra một thanh niên thân to lớn, sức lực dũng mãnh có thể lay động quả đất, rồi đi đến chỗ Phật.

Các Tỳ-kheo kia vừa trông thấy thanh niên to lớn, dũng mãnh, sinh lòng sợ hãi, lông trong người dựng đứng, nói với nhau rằng:

“Kia là ai mà hình dáng đáng sợ vậy?”

Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Đó là Ác ma Ba-tuần muốn làm nhiễu loạn.”

Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:

Sắc, thanh, hương, vị, xúc,

Và thứ sáu: các pháp;

Niệm, ái, thích, vừa ý,

Thế gian chỉ có vậy.

Đây là tham ác nhất,

Thường trói buộc phàm phu.

Người vượt những thứ này,

Là Thánh đệ tử Phật;

Vượt qua cảnh giới Ma,

Như mặt trời không mây.

Khi đó Ma Ba-tuần tự nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm đã biết tâm ta.’ “ Trong lòng cảm thấy ưu sầu, liền biến mất. [43]


 [1] Tương ưng Ma, gồm cách kinh Đại chánh, kinh 1084-1103. (quyển 38&39). Quốc dịch, “Tụng vii. Kệ. 2. Tương ưng Ma” gồm 2 phẩm, 21 kinh. Ấn Thuận Hội biên, “Tụng viii. Tám chúng. 18. Tương ưng Ma” 20 kinh.

 [2] Đại chánh, kinh 1084. Quốc dịch, phẩm 1. Pāli,  S. 4. 9. Āyu. No 100(23).

 [3] Hàn lâm 寒林.

 [4] Đại chánh, kinh 1085.  Pāli, S. 4. 10. Āyu. Biệt dịch, No 100(24).

 [5] Tô tức 穌息.

 [6] Đại chánh, kinh 1086. Ma trói. Pāli, S. 4. 15. Mānassa.

 [7] Đại chánh, kinh 1087. Nằm ngủ. Pāli, S. 4. 1. 7. Suppati. Biệt dịch, No 100(26).

 [8] Đại chánh, kinh 1088.Pāli, S. 4. 11. Pāsāṇa. Biệt dịch, No 100(27).

 [9] Đại chánh, kinh 1089. Pāli, S. 4. 6. Sappa. Biệt dịch, No 100(28).

 [10] Hán: đại long 大龍. Pāli: mahanta sapparājā, đại xà vương.

 [11] Đại chánh, kinh 1090. Pāli, S. 4. 13. Sakalika. Biệt dịch, No 100(29).

 [12] Vương xá thành Tì-bà-la sơn Thất diệp thọ lâm thạch thất 王 舍 城 毘 婆 羅 山 七 葉樹林石室.  Đây chỉ hang Sattapaṇṇiguhā, trên sườn núi Vebhāra, thành Rājagaha.

 [13] Đại chánh, kinh 1091. Pāli, S. 4. 23. Godhika. Biệt dịch, No 100(30).

 [14] Cù-đề-ca 瞿低迦. Câu-xá 25 (tr. 130b11): Kiều-để-ca 喬底迦.  Pāli: Godhika.

 [15] Hắc thạch thất 黑石室. Pāli: Kāḷasilā.

 [16] Tiên nhân sơn, 仙人山. Pāli: Isigili-passa.

 [17] Để bản: thời thọ (nên sửa lại: ái) ý giải thoát 時受意解脫; tức thời giải thoát hay thới ái tâm giải thoát, trường hợp A-la-hán chứng tâm giải thoát tuỳ thuộc hoàn cảnh; khi nghich duyên, có thể bị thối thất. Xem, Câu-xá 25, tr. 129a 19, 130b 16 Pāli: sāmāyikaṃ cetovimuttiṃ. 

 [18] Xem kinh Đại chánh 1265, về trường hợp Bạt-ca-lê.

 [19] Hán: bất trụ tâm 不住心. Pāli: appatiṭṭhitena viññāṇena, bằng thức vô trụ (không trụ xứ).

 [20] Đại chánh, kinh1092. Pāli, S. 4.24. Sattavassa;  S. 4. 25. Dhītaro. Biệt dịch, No 100(31).

 [21] Pāli: kaṭṭhena bhūmiṃ vilikhanto, dùng que vạch lên đất.

 [22] Ái lạc愛欲, Ái niệm 愛念,  Ái dục 愛樂. Pāli: Taṇhā (Khát ái), Arati (Bất mãn), Rāga (tham).

 [23] Đại chánh, kinh 1093.   Pāli, S. 4. 2. Nāga; 4. 3. Subha.

 [24] Đại chánh, kinh 11094. Quốc dịch, phẩm 2. Pāli, S. 4. 1. Tapokammañca.

 [25] Khổ hành . Pāli: duukkarakārikāya, đây chỉ sáu năm khổ hành của Phật.

 [26] Pāli: như bánh lái của chiêc thuyền trên cạn.

 [27] Đại chánh, kinh 1095.  Pāli, S. 4. 1 8. Piṇḍa.

 [28] Sa-la bà-la-môn tụ lạc 娑羅婆羅門聚. Pāli: Pañcasālāyaṃ brāhmaṇagāme.

 [29] Đại chánh, kinh 1096.  Pāli, S. 4. 4-5 Pāsa.

 [30] Đại chánh, kinh 1097. Pāli, S. 4. 14. Paṭirūpa.

 [31] Thạch Chủ 石主.  Pāli: Kosalesu Ekasālāyaṃ brāhmaṇagāme.

 [32] Pāli: netaṃ tava paṭỉūpaṃ, tad aññam anusāssasi, anurodhavirodhesu, mā sajjittho tad ācaran ti, “Thật không thích hơp để Ngài giáo hoá người khác. Chơớ đi giữa những người tán thành và những người chống đối.

 [33] Pāli: hitānukampī sambuddho, yad aññam anusāssati; anurodhavirodhehi vippamutto Tathāgato ti, Đấng Chanh giác giáo hoá mọi người do lòng thưong tưởng, lân tuất. Như lai đã giải thoát ngoài những tán thành và chống đối.

 [34] Đại chánh, kinh 1098. Pāli, S. 4. 2. 10 Rajja.

 [35].  S. 4. 21. Sambahulā.

 [36] Đại chánh, kinh 1100. Pāli, S. 4. 3. 2. Samddhi.

 [37]Thiện Giác 善覺. Pāli: Samiddhi.

 [38] Vô giá bảo. Bản Tống Nguyên Minh: Pháp Tăng bảo.

 [39] Đại chánh, kinh 1101. Pāli, S. 4. 1 2. Sīha.

 [40] Đại chánh, kinh 1102. Pāli, S. 4. 16. Patta.

 [41] Đại chánh, kinh 1103. Pāli, S. 4.1 7. Āyatana.

 [42] Xúc nhập xứ 觸入處. Pāli: phassāyatana.

 [43] Bản Hán, hết quyển 39.