41. Tương Ưng Đại Ca-diếp, Kinh 1277-1287

TỤNG VIII. NHƯ LAI SỞ THUYẾT

41. TƯƠNG ƯNG ĐẠI CA-DIẾP [1]

KINH 1277. NGUYỆT DỤ [2]

 [299c6] Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương Xá. [3]

Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Hãy sống như mặt trăng; khi đi vào nhà người khác với tàm quý, khiêm hạ, kiểm thúc tâm, thúc liễm thân hình như người mới học. Như người mắt sáng khi lội vực sâu, lên đỉnh núi, kiểm thúc tâm, thúc liễm thân hình và chậm rãi tiến tới trước.

“Tỳ-kheo cũng vậy, sống như mặt trăng; khi đi vào nhà người khác với tàm quý, khiêm hạ, kiểm thúc tâm, thúc liễm thân hình như người mới học.

“Tỳ-kheo Ca-diếp sống như mặt trăng; khi đi vào nhà người khác với tàm quý, khiêm hạ không cao mạn, kiểm thúc tâm, thúc liễm thân hình như người mới học. Như người mắt sáng lội vực sâu, lên đỉnh núi, chế ngự tâm, thúc liêm thân, xem xét kỹ rồi mới tiến.”

Phật nói với các Tỳ-kheo:

“Ý các ngươi thế nào? Tỳ-kheo phải như thế nào mới vào nhà người?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn! Thế Tôn là gốc pháp, là con mắt pháp, là chỗ nương tựa của pháp. Cúi xin Thế Tôn nói rộng, các Tỳ-kheo sau khi nghe sẽ nhận lãnh phụng hành.”

Phật nói với Tỳ-kheo:

“Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các Thầy giảng nói.

“Tỳ-kheo ở nhà người mà tâm không bị dính, không bị trói, không  tham đắm dục lạc; [4] đối với cái lợi mà người khác có, công đức mà người khác làm, hoan hỷ như là của chính mình, không sinh ra tư tưởng ganh tị; cũng không tự đề cao mình, hạ thấp người. Tỳ-kheo như vậy mới nên vào nhà người.”

Bấy giờ, Thế Tôn đưa tay sờ vào hư không, rồi hỏi các Tỳ-kheo:

“Nay tay này của Ta có bị dính, bị trói, bị nhiễm bởi hư không chăng?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, không.”

Phật nói với Tỳ-kheo:

“Pháp của Tỳ-kheo thường như vây. Với tâm không bị dính, không bị trói, và không bị nhiễm khi vào nhà người. Chỉ có Tỳ-kheo Ca-diếp là với tâm không bị dính, không bị trói, và không bị nhiễm khi vào nhà người. Đối với cái lợi mà người khác có, công đức mà người khác làm, hoan hỷ như là của chính mình, không sinh ra tư tưởng ganh tị; cũng không tự đề cao mình, hạ thấp người, chỉ có Tỳ-kheo Ca-diếp như vậy mới nên vào nhà người.”

Bấy giờ, Thế Tôn lại đưa tay sờ vào hư không, rồi hỏi các tỳ-kheo:

 [300a]”Ý các ngươi thế nào? Nay tay này của Ta có bị dính, bị trói, bị  nhiễm bởi hư không chăng?”

Tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, không.”

Phật nói với Tỳ-kheo:

“Chỉ Tỳ-kheo Ca-diếp luôn luôn là như vậy. Với tâm không bị dính, không bị trói, và không bị nhiễm khi vào nhà người.

Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Tỳ-kheo, như thế nào mới đáng là thuyết pháp thanh tịnh?”

Các tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn! Thế Tôn là gốc pháp, là con mắt pháp, là nơi nương tựa của pháp. Cúi xin Thế Tôn nói rộng, chúng con sau khi nghe sẽ nhận lãnh phụng hành.”

Phật nói với Tỳ-kheo:

“Hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà giảng nói.

“Tỳ-kheo thuyết pháp cho người mà khởi tâm như vầy: ‘Ta thuyết pháp cho những người mà sau khi người đó đã có tâm tịnh tín làm gốc đối, ta sẽ được cúng dường y phục, ngọa cụ, chăn nệm và thuốc men.’ Thuyết như vậy, gọi là thuyết pháp không thanh tịnh.

“Hoặc có Tỳ-kheo thuyết pháp cho người, khởi nghĩ như vầy: ‘Chánh pháp luật được Thế Tôn hiển hiện, lìa các nhiệt não, không đợi thời tiết, ngay nơi hiện thân này, [5] duyên nơi tự tâm mà giác tri, hướng thẳng Niết-bàn. Nhưng chúng sanh thì đắm chìm trong già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não. Những chúng sanh như vậy nếu nghe được chánh pháp sẽ được làm cho ích lợi, an lạc lâu dài. Do nhân duyên chánh pháp này, bằng tâm từ, tâm bi, tâm thương xót, và tâm muốn chánh pháp được trụ thế lâu dài mà thuyết cho người,’ Đó gọi là thuyết pháp thanh tịnh.

“Chỉ có Tỳ-kheo Ca-diếp mới có tâm thanh tịnh như vậy mà vì người thuyết pháp; rằng ‘Chánh pháp luật của Như Lai, ... cho đến vì tâm muốn làm chánh pháp được trụ thế lâu dài mà vì người thuyết pháp.’

“Cho nên, các Tỳ-kheo, hãy học như vậy, thuyết pháp như vậy: Chánh pháp luật của Như Lai, ... cho đến tâm muốn khiến cho chánh pháp được thường trụ lâu dài mà vì người thuyết pháp.”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1278. THÍ DỮ [6]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Tỳ-kheo muốn vào nhà người mà khởi nghĩ như vầy: ‘Người kia sẽ bố thí cho ta, chứ không phải không bố thí; bố thí ngay lập tức chứ không bố thí lần hồi; bố thí nhiều chứ không bố thí ít; bố thí vật ngon chứ không bố thí vật dở; bố thí nhanh chứ không bố thí chậm.’ Với tâm như vậy mà đến nhà người, nếu người ta không bố thí, ... cho đến bố thí chậm, tâm của Tỳ-kheo này sẽ bị khuất nhục. Vì lý do này nên tâm của Tỳ-kheo ấy thối thất, tự sinh chướng ngại.

“Hoặc có Tỳ-kheo muốn vào nhà người mà khởi nghĩ như vầy: ‘Người xuất gia đến nhà người, là do đâu được [300b] bố thí chứ không phải không được bố thí, bố thí lập tức chứ không phải bố thí  lần hồi, bố thí nhiều chứ không phải bố thí ít, bố thí vật ngon chứ không phải bố thí dở, bố thí nhanh chứ không phải bố thí  chậm?’ Nghĩ như vậy mới đến nhà người. Nếu người ta không bố thí, ... cho đến bố thí chậm, tâm của Tỳ-kheo này không bị khuất nhục, cũng không bị thối thất, không sinh chướng ngại.

“Chỉ có Tỳ-kheo Ca-diếp nghĩ như vậy khi đến nhà người. Cho nên, các Tỳ-kheo, hãy học như vậy, nghĩ như vậy khi vào nhà người: Người xuất gia khi đến nhà người, do đâu được bố thí chứ không phải không được bố thí, ... cho đến bố thí nhanh chứ không phải bố thí chậm?”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1279. THẮNG [7]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tôn giả Ca-diếp ở trong giảng đường Lộc Tử Mẫu vườn phía Đông nước Xá-vệ. Buổi chiều, sau khi từ thiền tịnh dậy, Tôn giả đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, rồi ngồi xuống một bên. Khi ấy Thế Tôn nói với Tôn giả Ma-ha Ca-diếp:

“Thầy nên thuyết pháp, giáo giới, giáo thọ cho các Tỳ-kheo. Vì sao? Vì Ta thường thuyết pháp giáo giới, giáo thọ cho các Tỳ-kheo. Thầy cũng nên như vậy.”

Tôn giả Ma-ha ca-diếp bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, nay rất khó giáo thọ các Tỳ kheo. Hoặc có Tỳ-kheo không chịu nghe nói.”

Phật nói với Ma-ha Ca-diếp:

“Vì lý do gì Thầy nói như vậy?”

Ma-ha Ca-diếp bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con thấy có hai Tỳ-kheo, một tên là Bàn-trù [8] đệ tử của A-nan, hai tên là A-phù-tì [9] đệ tử của Ma-ha Mục-kiền-liên. Hai người này tranh luận về đa văn. Họ nói với nhau, ‘Ngươi đến đây cùng nhau bàn luận, để xem ai có sở tri nhiều, và sở tri ai hơn.’”

Khi ấy, Tôn giả A-nan đứng sau Phật đang cầm quạt hầu, nói với Tôn giả Ma-ha Ca-diếp:

“Hãy thôi, Thưa Tôn giả Ma-ha Ca-diếp! Hãy nhẫn, Tôn giả Ca-diếp! Những Tỳ-kheo thiếu niên này trí tuệ kém, trí tuệ xấu.”

Tôn giả Ma-ha Ca-diếp nói với Tôn giả A-nan:

“Thầy hãy im lặng, chớ khiến ta ở giữa Tăng hỏi việc Thầy.” [10]

Tôn giả A-nan liền im lặng.

Bây giờ, đức Phật nói với một Tỳ-kheo,”Ngươi hãy đến chỗ Tỳ-kheo Bàn-trù và A-phù-tì nói rằng: ‘Đại Sư cho gọi các ngươi.’”

Tỳ-kheo này liền vâng lời, đến chỗ Tỳ-kheo A-phù-tì và Tỳ-kheo Bàn-trù nói rằng:

“Đại Sư cho các ngươi.”

Tỳ-kheo Bàn-trù và A-phù-tì vâng theo lời dạy, cả hai liền đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân, ngồi xuống một bên.

Bấy giờ, Thế Tôn hỏi hai Tỳ-kheo:

“Có thực, hai ngươi đã cùng nhau tranh luận, và nói: ‘Ngươi đến đây cùng nhau bàn luận để xem ai có sở tri nhiều, và sở tri ai hơn.’?”

Hai Tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, Thật có.”

Phật nói với hai Tỳ-kheo:

“Các ngươi đem những pháp của Ta dạy như Tu-đa-la, Kỳ-dạ, Già-đà, Ưu-đà-na, Ni-đà-na, A-bà-đà-na, Y-đế-nhật-đa-già, Xà-đà-già, Tỳ-phú-la, A-phù-đà-đạt-ma, Ưu-ba-đề-xá để tranh luận nhau, và nói với nhau, ‘Ngươi đến đây cùng nhau tranh luận để xem ai có sở tri nhiều, và sở tri ai hơn’ phải không?”

Hai Tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, Không phải vậy.”

Phật nói với hai Tỳ-kheo:

“Các ngươi không đem những gì Ta đã nói trong Tu-đa-la, ... cho đến Ưu-ba-đề-xá để tự điều phục, tự đình chỉ và tự cầu Niết-bàn sao?”

Hai Tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn! Đúng vậy.”

Phật nói với hai Tỳ-kheo:

“Các ngươi là những người ngu si!  Sao các ngươi đã biết những gì Ta dạy trong Tu-đa-la, ... cho đến Ưu-ba-đề-xá rồi, lại cùng nhau tranh luận thử ai có sở tri nhiều, và sở tri ai hơn?”

 Lúc này, hai Tỳ-kheo trước Phật lễ sát chân, cùng bạch Phật:

“Chúng con xin sám hối Thế Tôn! Xin sám hối Thiện thệ! Chúng con ngu si bất thiện, không phân biệt, nên tranh luận nhau.”

Phật nói với hai Tỳ-kheo:

“Các ngươi đã thực biết tội, sám hối lỗi ngu si, bất thiện, không biết phân biệt mà lại cùng tranh luận. Nay đã tự biết tội, tự thấy tội, tự biết hối lỗi, giới luật nghi sẽ phát sinh ở đời vị lai. Nay Ta vì thương xót các ngươi mà nhận sự sám hối, để cho thiện pháp các ngươi tăng trưởng  không bao giờ thối giảm. Vì sao? Vì nếu có người tự biết tội,  tự thấy tội, tự biết hối lỗi, giới luật nghi sẽ phát sinh ở đời vị lai, không bao giờ thối giảm.”

Hai Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ làm lễ ra về.

KINH 1280. VÔ TÍN [11]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tôn giả Ma-ha Ca-diếp ở trong giảng đường Lộc Tử Mẫu tại vườn phía Đông nước Xá-vệ. Buổi chiều, sau khi từ thiền tịnh dậy, Tôn giả đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân, rồi ngồi xuống một bên. Phật nói với Ca-diếp:

“Thầy nên giáo thọ, giáo giới cho các Tỳ-kheo. Hãy vì các Tỳ-kheo mà thuyết pháp, giáo giới, giáo thọ. Vì sao? Vì Ta thường thuyết pháp giáo giới, giáo thọ cho các Tỳ-kheo. Thầy cũng nên như vậy.”

Tôn giả Ma-ha ca-diếp bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, Tỳ-kheo bây giờ [301a] khó có thể vì họ thuyết pháp. Nếu có thuyết pháp, sẽ có Tỳ-kheo không nhẫn, không hoan hỷ.”

Phật nói với Ca-diếp:

“Vì lý do gì Thầy nói như vậy?”

Ma-ha Ca-diếp bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, hoặc có Tỳ-kheo không có tâm tín kính đối với thiện pháp, nếu nghe thuyết pháp, họ có thể thối chuyển. Hoặc người ác trí tuệ, không có trí tuệ, tinh tấn, và tàm quý, không có trí tuệ đối với thiện pháp; người ấy nghe thuyết pháp, có thể thối thất. Hoặc có người tham dục, sân nhuế, thụy miên, trạo hối, nghi hoặc, thân hành thô bạo, phẩn hận, thất niệm, bất định, vô trí; người ấy nếu nghe thuyết pháp thì cũng thối thất. Bạch Thế Tôn, những hạng người xấu như vậy, khiến tâm họ an trụ ở thiện pháp còn không thể, huống lại tăng tiến. Nên biết, nơi hạng người này thiện pháp càng ngày càng thối thất, không thể tăng trưởng.

“Bạch Thế Tôn, nếu người nào, đối với thiện pháp, có tín thanh tịnh; người ấy không thối thất. Đối với thiện pháp có trí tuệ, tinh tấn, và tàm quý, người ấy không thối thất. Người không tham, không nhuế, không thụy miên, không trạo hối, không nghi hoặc, sẽ không thối thất. Người mà thân hành không thô bạo, tâm không ô nhiễm, không phẫn, không hận, định tâm, chánh niệm, trí tuệ, người ấy không thối thất. Người như vậy, đối với các thiện pháp, càng ngày càng tăng trưởng, huống chi  tâm lại an trú. Người này ngày đêm thường cầu thăng tiến, không bao giờ thối thất.”

Phật nói với Ca-diếp:

“Đúng vậy! Đúng vậy! Người nào đối với các thiện pháp mà không có tín thì bị thối thất.” Cũng như Ca-diếp lần lượt nói đầy đủ.

Tôn giả Ma-ha Ca-diếp sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, tùy hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễrồi  ra về.

KINH 1281. PHẬT CĂN BẢN [12]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tôn giả Ma-ha Ca-diếp ở trong giảng đường Lộc Tử Mẫu tại vườn phía Đông nước Xá-vệ. Buổi chiều, sau khi từ thiền tịnh dậy, Tôn giả đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, rồi ngồi xuống một bên. Khi ấy Thế Tôn nói với Tôn giả Ma-ha Ca-diếp:

“Thầy nên giáo thọ, giáo giới cho các Tỳ-kheo. Hãy vì các Tỳ-kheo mà thuyết pháp, giáo giới, giáo thọ. Vì sao? Vì Ta thường thuyết pháp giáo giới, giáo thọ cho các Tỳ-kheo. Thầy cũng nên như vậy.”

Tôn giả Ma-ha ca-diếp bạch Phật:

“BạchThế Tôn, Tỳ-kheo bây giờ khó có thể vì họ thuyết pháp. Có các Tỳ kheo nghe thuyết pháp sẽ không nhẫn, không haon hỷ.”

Phật nói với Ca-diếp:

“Vì lý do gì Thầy nói như vậy?”

Ma-ha Ca-diếp bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn là gốc pháp, là con mắt pháp, là chỗ nương tựa của pháp. [301b] Cúi xin Thế Tôn vì các Tỳ kheo thuyết pháp, các Tỳ-kheo sau khi nghe sẽ lãnh thọ phụng hành.”

Phật nói với Ca-diếp:

“Hãy lắng nghe, và suy nghĩ cho kỹ, Ta sẽ vì các Thầy mà giảng nói.”

Phật nói với Ca-diếp:

“Ngày xưa, Tỳ-kheo a-luyện-nhã sống ở chỗ a-luyện-nhã, khen ngợi pháp a-luyện-nhã. Tỳ-kheo khất thực [13] thì khen ngợi về công đức khất thực. Tỳ-kheo y phấn tảo thì khen ngợi về công đức mặc y phấn tảo. Tỳ-kheo thiểu dục tri túc, tu hạnh viễn ly, tinh cần phương tiện, chánh niệm, chánh định, trí tuệ lậu tận, tự thân tác chứng, theo sở hành của họ mà khen ngợi, xưng tụng. Này Ca-diếp, Tỳ kheo a-luyện-nhã thì khen ngợi pháp â-luyện-nhã, ... cho đến Tỳ-kheo lậu tận, khen ngợi lậu tận tự thân tác chứng. Nếu gặp những vị  như vậy thì nên tiếp chuyện, tùy nghi  thăm hỏi, chào đón: ‘Ngài tên gì? Đệ tử của ai?’ Nhường chỗ ngồi mời ngồi và tán thán sự hiền thiện của họ, như pháp sở hành của họ, có nghĩa Sa-môn, có sở dục Sa-môn, khen ngợi như vậy. Bấy giờ, nếu họ cùng ở hay cùng đi thì liền quyết định, tùy thuận sở hành của họ, không bao lâu cũng sẽ đồng với sở kiến và sở dục của họ.”

Phật nói với Ca-diếp:

“Nếu Tỳ-kheo tuổi trẻ gặp Tỳ-kheo a-luyện-nhã kia đến thì  tán thán pháp a-luyện-nhã, ... cho đến Tỳ kheo lậu tận, tự thân tác chứng. Tỳ-kheo tuổi trẻ này nên đứng dậy nghinh tiếp, cung kính lễ bái, thưa hỏi, ... cho đến cùng ở với họ, không bao lâu chính mình sẽ được nghĩa lợi, được hữu ích. Người nào cung kính như vậy, sẽ được lợi ích an lạc lâu dài.”

Phật nói với Ca-diếp:

“Hiện nay, Tỳ-kheo tuổi trẻ thấy vị kia đến, biết đó là dại đức, có tri kiến có thể chiêu cảm được mọi thứ tài vật như y phục, chăn nệm, đồ ăn thức uống, giường nằm, thuốc men, nên cùng tiếp chuyện với họ, cung kính hỏi thăm, chào đón, rằng: ‘Ngài tên gì? Là đệ tử của ai?’ Và tán thán phước đức của họ để có thể chiêu cảm được lợi lớn như y phục, chăn nệm, đồ ăn thức uống, giường nằm, thuốc men. Hoặc cùng gần gũi vị ấy cũng sẽ được đầy đủ mọi thứ y phục, chăn nệm, đồ ăn thức uống, giường nằm, thuốc men. Hoặc lại có Tỳ-kheo-niên thiếu, thấy vị kia đến, biết đó là đại đức, đại trí, có thể chiêu cảm được mọi thứ tài lợi như y phục, chăn nệm, đồ ăn thức uống, giường nằm, thuốc men, nên vội vàng  đứng dậy nghinh đón, cung kính chào hỏi: ‘‘Quý thay Ngài đến đây, bậc đại  đức, đại trí!’ Như thế để có thể chiêu cảm lợi  lớn về y phục, chăn nệm, đồ ăn thức uống, giường nằm, thuốc men. Này Ca-diếp, những Tỳ-kheo-niên thiếu như vậy sẽ lâu dài bị đau khổ, phi nghĩa, không có lợi.

“Như vậy, Ca-diếp, những Tỳ-kheo đó là tai hoạn của sa-môn, là sự đắm chìm của phạm hạnh, là chướng ngại lớn, là pháp ác bất thiện, là cái hại của phiền não, trở lại thọ các hữu, [301c] chịu khổ báo sinh tử thiêu đốt trong đời vị lai đưa đến sinh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não. Cho nên, Ca-diếp! phải tu học như vầy: Hãy xưng danh tán thán những vị  a-luyện-nhã sống ở a-luyện-nhã; xưng danh tán thán vị mặc y phấn tảo khất thực, thiểu dục tri túc, tu hạnh viễn ly, tinh cần phương tiện, chánh niệm, chánh định, chánh trí lậu tận, tự thân tác chứng.”

Phật nói kinh này xong. Tôn giả Ma-ha Ca-diếp sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ làm lễ ra về.

KINH 1282. NIÊN KỲ [14]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tôn giả Ma-ha Ca-diếp ở tại giảng đường Lộc Tử Mẫu trong vườn phía Đông nước Xá-vệ. Buổi chiều, sau khi từ thiền tịnh dậy, Tôn giả đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân, rồi ngồi xuống một bên. Khi ấy, Thế Tôn nói với Ma-ha Ca-diếp:

“Thầy nay đã già, các căn suy yếu,  mà y phấn tảo thì nặng. Y của Ta nhẹ tốt. [15] Nay Thầy có thể ở trong chúng mặc y nhẹ hoại sắc do cư sỹ cúng.”

Ca-diếp bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con đã lâu dài tập hạnh a-luyện-mhã, tán thán hạnh a-luyện-nhã, mặc y phấn tảo, khất thực.”

Phật nói với Ca-diếp:

“Thầy quán sát có bao nhiêu nghĩa mà tập hạnh a-luyện-nhã, tán thán pháp a-luyện-nhã; mặc y phấn tảo, khất thực, tán thán pháp mặc y phấn tảo, khất thực?”

Ca-diếp bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con quán sát thấy có hai nghĩa: hiện tại được nghĩa sống an lạc, và đời vị lai, làm gương cho chúng sanh. Vì chúng sanh đời vị lai sẽ nghĩ như vầy: ‘Thượng tọa quá khứ có sáu thần thông, xuất gia lâu ngày, phạm hạnh thuần thục, được Thế Tôn khen ngợi, và được những vị đồng phạm hạnh trí  tuệ phụng sự. Vị ấy  lâu dài tập hạnh a-luyện-nhã, tán thán pháp a-luyện-nhã;  mặc y phấn tảo, khất  thực, tán thán pháp mặc y phấn tảo, khất thực.’ Nếu ai  nghe được điều này, tâm họ sẽ thanh tịnh và tùy hỷ, lúc nào cũng được  an lạc và lợi ích.”

Phật nói với Ca-diếp:

“Lành thay! Lành thay, Ca-diếp! Thầy là người trong lâu dài đem lại nhiều lợi ích, an lạc cho chúng sanh, thương xót thế gian, và an lạc trời, người.”

Phật nói với Ca-diếp:

“Nếu có người nào hủy báng pháp đầu đà, [16] tức là hủy báng Ta. Nếu có người nào tán thán pháp đầu đà, tức là tán thán Ta. Vì sao? Vì pháp đầu đà là pháp Ta luôn luôn xưng danh và tán thán. Cho nên, Ca-diếp,  người a-luyện-nhã, nên tán thán A-luyện-nhã; người mặc y phấn tảo, khất thực, nên tán thán pháp mặc y phấn tảo khất thực.”

Phật nói kinh này xong. Ma-ha Ca-diếp sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ tùy hỷ, làm lễ ra về.

KINH 1283. TỆ NẠP Y [17]

 [302a]Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tôn giả Ma-ha Ca-diếp sống lâu nơi trú xứ sàng tọa a-luyện-nhã, [18] râu tóc ra dài, mặc y rách vá, đến chỗ Phật.

Lúc đó Thế Tôn đang thuyết pháp cho vô số đại chúng vây quanh. Bấy giờ, các Tỳ-kheo thấy Ma-ha Ca-diếp từ xa đi lại, và sau khi thấy Tôn giả Ma-ha Ca-diếp rồi, họ khởi tâm khinh mạn rằng:

“Tỳ-kheo này là ai mà y phục tồi tàn; đến đây mà dung nghi không có; đến đây mà y phục bộ dạng?” [19]

Khi đó Thế Tôn biết được tâm niệm của các Tỳ-kheo, nói với Ma-ha Ca-diếp:

“Đến đây! Ca-diếp! Hãy ngồi nơi phân nửa chỗ ngồi này. Nay Ta muốn biết, ai xuất gia trước. Thầy ư? Ta ư?”

Các Tỳ-kheo sinh lòng sợ hãi, chân lông dựng đứng lên, nói với nhau:

“Lạ thay, Tôn giả! Tôn giả ấy là Ma-ha Ca-diếp có đức độ lớn, thần lực lớn, là đệ tử của Đại Sư, được mời ngồi nửa tòa.”

Khi ấy Tôn giả Ma-ha Ca-diếp chấp tay bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn! Phật là Thầy con. Con là đệ tử.” [20]

Phật nói với Ca-diếp:

“Thật vậy! Thật vậy! Ta là Đại Sư. Ông là đệ tử. Bây giờ ông hãy ngồi xuống, trên chỗ ngồi đã dọn sẵn.”

Tôn giả ma-ha Ca-diếp cúi đầu lễ sát chân Phật, ngồi xuống một bên.

Bấy giờ Thế Tôn muốn cảnh tỉnh các Tỳ-kheo nên đem những công đức rộng lớn thù thắng của Ca-diếp đã sở đắc như mình, vì đại chúng hiện tiền mà nói với các Tỳ kheo:

“Ta đã ly dục, pháp ác bất thiện, có tầm có tứ, thành tựu và trụ sơ thiền, hoặc ngày, hoặc đêm, hoặc ngày đêm. Ma-ha Ca-diếp cũng lại  như Ta, ly dục, pháp ác bất thiện, cho đến thành tựu  và trụ sơ thiền, hoặc ngày, hoặc đêm, hoặc ngày đêm.

“Ta muốn thành tựu và an trụ nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, hoặc ngày, hoặc đêm, hoặc này đêm. Ma-ha Ca-diếp cũng lại như vậy, ... cho đến  thành tựu và an trụ tứ thiền, hoặc ngày, hoặc đêm, hoặc ngày đêm.

“Ta tùy theo sở dục mà thành tựu và an trụ từ, bi, hỷ, xả, không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu nhập xứ, phi tưởng phi  phi tưởng xứ, thần thông hiện các cảnh giới, có trí thiên nhĩ, tha tâm, túc mạng, trí sinh tử, và trí lậu tận, hoặc ngày, hoặc đêm, hoặc ngày đêm. Tỳ-kheo Đại Ca-diếp cũng lại như vậy, ... cho đến thành tựu và an trụ trí lậu tận hoặc ngày, hoặc đêm, hoặc ngày đêm.”

Sau khi đức Thế Tôn ở giữa vô số đại chúng, tán thán công đức thắng diệu rộng lớn của Tôn giả Ma-ha Ca-diếp như mình rồi,  [302b]các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 1284. TẰNG VI [21]

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tôn giả Ma-ha ca-diếp và Tôn giả A-nan đang ở trong núi Kỳ-xà-quật. Tôn gỉa A-nan đi đến chỗ Tôn giả Ca-diếp nói rằng:

“Hôm nay chúng ta hãy cùng ra khỏi núi Kỳ-xà-quật, vào thành Vương Xá khất thực.”

Tôn giả Ma-ha Ca-diếp im lặng bằng lòng. Hai Tôn giả Ma-ha Ca-diếp và A-nan khóac y, ôm bát vào thành Vương Xá khất thực. Tôn giả A-nan nói với Tôn giả Ma-ha Ca-diếp:

“Trời còn quá sớm, chúng ta tạm ghé qua tinh xá Tỳ-kheo-ni.”

Hai vị liền ghé qua. Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni  trông thấy Tôn giả Ca-diếp và Tôn giả A-nan từ xa đi lại, vội vàng trải sàng tòa mời ngồi. Các Tỳ-kheo-ni đảnh lễ sát chân Tôn giả Ma-ha Ca-diếp và Tôn giả A-nan, rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả Ma-ha Ca-diếp vì các Tỳ-kheo-ni bằng nhiều cách thuyết pháp, chỉ bày, soi sáng, và làm cho vui vẻ. Sau khi Tôn giả chỉ bày, soi sáng, và làm chi vui vẻ xong, lúc ấy, Tỳ-kheo-ni Thâu-la Nan-đà [22] không hoan hỷ, nói ra những ác ngôn như vầy:

“Sao A-lê Ma-ha Ca-diếp [23] lại thuyết pháp cho Tỳ-kheo-ni trước mặt A-lê A-nan Tì-đề-a-mâu-ni? [24] Giống như người buôn bán kim lại đem kim bán cho người làm kim? A-lê Ma-ha Ca-diếp cũng lại như vậy. Sao lại thuyết pháp cho các Tỳ-kheo-ni trước mặt A-lê A-nan Tì-đề-a-mâu-ni?”

Tôn giả Ma-ha Ca-diếp sau khi nghe Tỳ-kheo-ni Thâu-la Nan-đà với tâm không hoan hỷ mà miệng thốt ra những ác ngôn, liền nói với Tôn giả A-nan:

“Ngươi có thấy Tỳ-kheo-ni Thâu-la Nan-đà với tâm không hoan hỷ mà miệng thốt ra những ác ngôn? Thế nào, A-nan, Ta là người buôn kim, bán kim trước mặt người làm kim là ngươi chăng?”

Tôn giả A-nan nói với Tôn giả Ma-ha Ca-diếp:

“Thôi, hãy nhịn! Đó là mụ già ngu si, [25] thiếu trí tuệ, chưa từng tu tập!”

“Này A-nan, ngươi chẳng đã từng nghe Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, là bậc Tri giả, Kiến giả, ở giữa đại chúng nói kinh ‘Nguyệt dụ,’ để giáo giới, giáo thọ, rằng ‘Tỳ-kheo, hãy sống như mật trăng, thường như người mới học’.... chi tiết như trên [26]? Đó là nói A-nan sống như mặt trăng, thường như người mới học chăng?”

Tôn giả A-nan thưa:

“Thưa Tôn giả Ma-ha Ca-diếp, Không phải.”

“A-nan, ngươi có nghe Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, là bậc Tri giả, Kiến giả, [302c] nói rằng ‘Tỳ-kheo, hãy sống như mật trăng, thường như người mới học. Duy chỉ có Ma-ha Ca-diếp.’Phải vậy chăng?”

 A-nan đáp:

“Thưa Tôn giả Ma-ha Ca-diệp! Đúng vậy.”

“A-nan, ngươi có từng được Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, là bậc Tri giả, Kiến giả, ở giữa vô lượng đại chúng, mời đến ngồi chung chăng?  Lại nữa, Thế Tôn có tán thán đức độ rộng lớn ngươi bằng Ngài không?  A-nan  đã ly dục, lìa pháp ác bất thiện, ... cho đến được Ngài tán thán lậu tận thông chăng?”

Đáp:

“Thưa Tôn giả Ca-diếp, chưa!”

“Như vậy, này A-nan, Thế Tôn Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, ở giữa vô lượng đại chúng, miệng tự nói: ‘Hãy đến đây, Ma-ha Ca-diếp! Mời Thầy ngồi nửa tòa.’ Lại, ở giữa đại chúng có khen ngợi công đức rộng lớn của Ma-ha Ca-diếp bằng Phật; đã lìa dục, lìa pháp ác bất thiện ... cho đến lậu tận không?”

A-nan đáp:

“Đúng vậy, Thưa Tôn giả Đại Ca-diếp.”

Khi ấy Tôn giả Ma-ha Ca-diếp ở giữa chúng Tỳ-kheo-ni rống lên tiếng rống sư tử.

KINH 1285. CHÚNG GIẢM THIỂU [27]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Tôn giả Ma-ha Ca-diếp và Tôn giả A-nan ở trong núi Kỳ-xà-quật, thành Vương Xá, sau khi Thế Tôn Niết-bàn chưa bao lâu.

Bấy giờ, gặp lúc mất mùa, đói kém, nên đi khất thực rất khó được.  Lúc ấy có nhiều Tỳ-kheo tuổi trẻ đi theo Tôn giả A-nan, không khéo nhiếp hộ các căn, ăn uống không biết lượng, nên không thể từ đầu đêm đến cuối đêm tinh cần thiền định tư duy, chỉ ưa đắm vào ngủ nghỉ, thường cầu lợi lộc ở đời. Họ du hành nhân gian đến Nam Thiên trúc, [28] có ba mươi Tỳ kheo tuổi trẻ xả giới hoàn tục, chỉ  còn lại mấy chú trẻ nhỏ. [29] Lúc ấy, Tôn giả A-nan du hành ở nước Nam sơn, [30] vì thấy đồ chúng còn ít nên trở lại Vương Xá. [31] Tôn giả  cất  y bát, rửa chân xong, đến chỗ Tôn giả Ma-ha Ca-diếp, cúi đầu lễ sát chân Tôn giả, ngồi xuống một bên. Lúc ấy, Tôn giả Ma-ha Ca-diếp hỏi Tôn giả A-nan:

“Thầy từ đâu đến mà đồ chúng quá ít?”

A-nan đáp:

“Từ nước Nam sơn, du hành trong nhơn gian, có ba mươi Tỳ kheo tuổi trẻ xả giới hoàn tục, đồ chúng giảm, nay còn lại phần nhiều là các trẻ nhỏ.”

Tôn giả Ma-ha Ca-diếp nói với A-nan rằng:

“Có bao nhiêu phước lợi mà  Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, bậc Tri giả, Kiến giả, chế giới cho phép ba người trở lên cùng ăn chung?” [32]

A-nan đáp:

“Vì hai việc. Những gì là hai? Một là nhà nghèo ít của. Hai là những người ác lập bạn đảng phá hoại nhau. [33] [303a] Chớ để những người ác mang danh là chúng, sống ở trong Tăng làm chướng ngại đại chúng, phân làm hai phe hiềm khích tranh đấu lẫn nhau.”

Tôn giả Ma-ha Ca-diếp nói với A-nan:

“Thầy biết nghĩa này, vì sao vào lúc đói kém lại cùng nhiều đệ tử niên thiếu du hành nước Nam sơn, làm cho ba mươi người xả giới hoàn tục, đồ chúng tổn giảm chỉ còn lại đa số là các trẻ nhỏ? A-nan, đồ chúng của Thầy giảm xuống như vậy, Thầy chỉ là trẻ con, vì không biết trù lượng.”

A-nan thưa:

“Thế nào, đầu tôi đã hai thứ tóc mà vẫn còn gọi tôi là trẻ con sao, bạch Tôn giả Ma-ha Ca-diếp?”

Tôn giả Ma-ha Ca-diếp nói:

“Vào thời buổi đói kém, mà Thầy cùng nhiều đệ tử tuổi trẻ du hành trong nhân gian, lại để cho ba mươi người xả giới hoàn tục, chỉ còn lại các trẻ nhỏ. Đồ chúng giảm dần, không biết trù lượng, mà nói là chúng kỳ cựu [34] bị tan vỡ.  Chúng của A-nan đã tan hết. Này A-nan! Thầy là trẻ con, vì không biết trù lượng.”

Khi ấy Tỳ-kheo-ni Đê-xá [35] nghe Tôn giả Ca-diếp dùng từ ‘trẻ con’ để quở trách Tôn giả A-nan Tì-đề-ha-mâu-ni. Nghe vậy, cô không hài lòng, bèn thốt ra những lời không tốt: “Sao A-lê Ma-ha Ca-diếp, vốn là gốc ngoại đạo, mà lại dám  dùng từ ‘trẻ con’ để quở trách A-lê A-nan Tì-đề-a-mâu-ni, khiến cho cái danh trẻ con lan ra.”

Tôn giả Ca-diếp bằng thiên nhĩ nghe được những ác ngôn thốt ra từ miệng Tỳ-kheo-ni Đê-xá khi lòng không hoan hỷ. Sau khi nghe vậy, Tôn giả nói với A-nan rằng:

“Thầy có thấy Tỳ-kheo-ni Đê-xá, tâm không hoan hỷ, miệng thốt ra những lời nói ác: ‘Ma-ha Ca-diếp gốc từ ngoại đạo mà dám quở trách A-lê A-nan Tì-đề-ha-mâu-ni, khiến cho cái danh trẻ con lan ra?”

Tôn giả A-nan đáp:

“Xin thôi, Tôn giả Ma-ha Ca-diếp! Hãy nhịn, Tôn giả Ma-ha Ca-diếp! Đó là mụ già ngu si, không có trí tự tánh.”

Tôn giả Ma-ha Ca-diếp nói với A-nan:

“Từ khi ta xuất gia đến nay, chưa từng biết ai khác là Thầy, ngoài Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác ra. Khi chưa xuất gia, ta thường suy nghĩ đến sinh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não. Biết là tại gia thì công việc bận rộn, nhiều phiền não; nếu xuất gia sống không nhàn. Người thế tục thì khó sống đời sống không nhà, một mực  trong sạch, suốt đời thuần nhất thanh tịnh tràn đầy, phạm hạnh thanh bạch. Nên ta đã cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chánh tín, xuất gia học đạo, không nhà; đem y quí, trị giá trăm ngàn lượng vàng cắt nhỏ từng mảnh may thành tăng-già-lê. Nếu trong thế gian có ai là [303b] A-la-hán, ta sẽ đi theo xuất gia. Sau khi xuất gia rồi, ta gặp Thế Tôn, thân ngồi ngay thẳng, tướng tốt kỳ lạ, các căn tịch tĩnh vắng lặng  không gì bằng, giống như núi vàng, ở khoảng giữa tụ lạc Na-la [36] tại thành Vương Xá và tháp Đa tử. [37] Khi ta thấy rồi, tự nghĩ: ‘Đây là Thầy ta. Đây là Thế Tôn. Đây là La-hán, đây là Đẳng Chánh Giác.’ Lúc ấy, ta nhất tâm chấp tay kính lễ bạch Phật:

“ - Ngài là Đại Sư con. Con là đệ tử!”

Phật nói với ta rằng:

“Thật vậy, Ca-diếp! Ta là Thầy của ông. Ông là đệ tử. Này Ca-diếp, nay ông đã thành tựu tâm thanh tịnh chân thật, Ông là người đáng cung kính. Người không biết, nói biết, không thấy, nói thấy; người thật không phải A-la-hán, mà nhận là A-la-hán; người không phải Đẳng Chánh Giác mà nói là Đẳng Chánh Giác, tự nhiên thân họ sẽ bị nát thành bảy mảnh. Này Ca-diếp, nay Ta biết, nên nói biết; thấy, nên nói thấy; thật A-la-hán nói A-la-hán; thật Đẳng Chánh Giác nói Đẳng Chánh Giác. Này Ca-diếp, nay Ta có nhân duyên vì Thanh văn thuyết pháp, không phải  không có nhân duyên; có y cứ không phải  không y cứ, có thần lực không phải không thần lực. Cho nên, này Ca-diếp, nếu muốn nghe pháp phải học như vậy: Nếu vì nghĩa lợi, vì hữu ích, muốn nghe pháp, phải một lòng cung kính tôn trọng, chuyên tâm lắng nghe và tự nghĩ rằng: Đối với sự sinh diệt của năm uẩn, sự tập khởi, sự diệt tận của lục sáu xứ, ta phải chánh quán. Đối với bốn niệm xứ, phải chánh niệm lạc trụ; tu tập bảy giác chi, tám giải thoát, tự thân tác chứng; lúc nào cũng nghĩ thân này chưa từng đoạn tuyệt, xa lìa sự không tàm quý. Đối với phạm hạnh và đạo đức của Đại Sư, thường giữ tâm tàm quý. Hãy học tập như vậy.

“Bấy giờ, Thế Tôn vì ta mà thuyết pháp: khai thị, chỉ giáo, soi sáng làm cho ta hoan hỷ. Sau khi khai thị, chỉ giáo, soi sáng, làm cho ta hoan hỷ rồi, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy đi, ta cũng đi theo về trụ xứ. Ta lấy cái  y giá trị trăm ngàn lượng vàng cắt may thành tăng-già-lê kia, gấp bốn làm tòa ngồi. Bấy giờ, Thế Tôn biết ta chí tâm cầu đạo. Ta trải y ra làm tọa cụ thỉnh Phật ngồi. Thế Tôn ngồi xuống, lấy tay sờ y, khen rằng:

“Ca-diếp, y này nhẹ, mịn, mềm mại.”

Lúc ấy, Ta thưa:

“Đúng vậy, bạch Thế Tôn! Y này nhẹ mịn, mềm mại. Cúi xin Thế Tôn nhận y này của con.”

Phật nói với Ca-diếp:

“Thầy nên nhận y phấn tảo của Ta. Ta sẽ nhận y tăng-già-lê của Thầy.”

Phật liền tự tay trao y phấn tảo trao cho ta. Ta liền dâng tăng-già-lê cho Phật. Rồi lần lượt giáo thọ như vậy, trong  vòng tám ngày, ta đã học pháp lãnh thọ nơi khất thực, cho đến ngày thứ chín, ta đạt đến vô học. Này A-nan, nếu có ai hỏi thẳng: ‘Ai là pháp tử của Thế Tôn, từ miệng Phật sinh, từ pháp hóa sinh, được giao phó gia tài Phật pháp, và các thiền giải thoát, tam-muội chánh thọ?’ Thì nên đáp, đó là ta. Như vậy là nói chân chánh.

“Giống như người con trưởng thứ nhất của Chuyển luân Thánh vương, sẽ bằng phép quán đảnh mà ngồi lên vương vị. hưởng thụ ngũ dục của vua, không phải dùng phương tiện khổ, tự nhiên hưởng được. Ta cũng như vậy, là pháp tử của Phật, từ miệng Phật sinh, từ pháp hóa sinh, đắc pháp và pháp tài khác như thiền định, giải thoát, tam-muội chánh thọ, không phải dùng phương tiện khổ, mà tự nhiên được.

“Thí như voi báu của Chuyển luân Thánh vương cao bảy, tám khủy tay mà một lá đa-la có thể che rợp. Cũng vậy, sáu thần thông trí  thành tựu của ta có thể che rợp. Nếu đối với cảnh giới thần thông và trí chứng, có người nào nghi hoặc, ta có thể vì họ phân biệt, ký thuyết về thiên nhĩ, tha tâm thông, túc mạng trí, sinh tử trí, lậu tận, tác chứng trí thông. Nếu có người nào nghi hoặc, ta có thể vì họ phân biệt, ký thuyết, khiến họ được quyết định.”

Tôn giả A-nan thưa Tôn giả Ma-ha Ca-diếp:

“Đúng vậy! Đúng vậy! Bạch Tôn giả Ma-ha Ca-diếp! Như voi báu của Chuyển luân Thánh vương cao bảy, tám khủy tay mà muốn dùng một lá đa-la có thể che rợp. Cũng vậy, Tôn giả Ma-ha Ca-diếp! Sáu thần thông trí có thể che rợp. Nếu có người nào nghi hoặc về cảnh giới thần thông, tác chứng trí ... cho đến lậu tận, tác chứng trí, Tôn giả Ma-ha Ca-diếp có thể vì họ ký thuyết khiến họ được quyết định. Đối với Tôn giả Ma-ha Ca-diếp tôi luôn luôn kính tín tôn trọng. Vì có thần lực đức độ lớn như vậy.”

Tôn giả Đại Ca-diếp sau khi nói những điều này, Tôn giả A-nan nghe những gì  Ngài nói, hoan hỷ thọ trì. [38]

KINH 1286. NGOẠI ĐẠO [39]

 [219b4]Tôi nghe như vầy:

Một thới, Phật ở trong vườn Trúc, Ca-lan-đà, thành Vương Xá. Bấy giờ Tôn giả Ma-ha Ca-diếp, và Tôn giả Xá-lợi-phất ở trong núi Kỳ-xà-quật. Bấy giờ có nhiều chúng xuất gia ngoại đạo đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất. Sau khi cùng Tôn giả thăm hỏi nhau, họ ngồi xuống một bên nói với Tôn giả Xá-lợi-phất rằng: [40]

“Thế nào Xá-lợi-phất, Như Lai đời sau có sinh tử không?” [41]

Xá-lợi-phất nói:

“Này các Ngoại đạo, Thế Tôn nói rằng: Điều này không ký thuyết.” [42]

Lại hỏi:

“Thế nào Xá-lợi-phất, Như Lai không có sinh tử đời sau phải chăng?”

Xá-lợi-phất đáp rằng:

“Này các Ngoại đạo, Thế Tôn nói rằng: Điều này không ký thuyết.”

Lại hỏi:

“Xá-lợi-phất, Như Lai vừa có sinh tử đời sau, vừa không có sinh tử đời sau chăng?”

Xá-lợi-phất đáp rằng:

“Thế Tôn nói rằng: Điều này không ký thuyết.”

Lại hỏi:

“Xá-lợi-phất, Như Lai vừa chẳng phải có sinh tử đời sau, vừa chẳng phải không có sinh tử đời sau chăng?”

Xá-lợi-phất đáp rằng:

“Này các Ngoại đạo, Thế Tôn nói rằng: Điều này không ký thuyết.”

Các xuất gia ngoại đạo lại hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Thế nào, những điều chúng tôi hỏi, Như Lai có sinh tử đời sau; không có sinh tử đời sau; vừa có đời sau, vừa không có đời sau; vừa chẳng phải có đời sau, vừa chẳng phải không có đời sau. Tất cả đều đáp, Thế Tôn nói rằng: ‘Điều này không ký thuyết.’ Tại sao là một Thượng tọa mà như ngu, như si, không khéo, không biết, như trẻ thơ không có trí tự tánh? [43] Sau khi nói xong những lời này, từ chỗ ngồi đứng dậy ra đi.

Lúc ấy, Tôn giả Ma-ha [226b] Ca-diếp, và Tôn giả Xá-lợi-Phất ở cách nhau không xa, cả hai ban ngày ngồi thiền tư dưới bóng cây. Tôn giả Xá-lợi-phất sau khi biết các xuất gia ngoại đạo đã đi rồi, bèn đi đến chỗ Tôn giả Ma-ha Ca-diếp, cùng nhau thăm hỏi khích lệ, rồi ngồi qua một bên, đem những việc bàn luận vừa rồi cùng các xuất gia ngoại đạo thưa lại đầy đủ cho Tôn giả Ma-ha Ca-diếp:

“Thưa Tôn giả Ma-ha Ca-diếp, do nhân gì, duyên gì mà Thế Tôn không ký thuyết đời sau có sinh tử; đời sau không có sinh tử; đời sau vừa có đời sau vừa không; chẳng phải có chẳng phải không sinh tử?”

Tôn giả Ma-ha Ca-diếp nói với Xá-lợi-phất rằng:

“Nếu nói Như Lai đời sau có sinh tử, đó là sắc. Nếu nói Như Lai đời sau không có sinh tử, đó là có sắc. Nếu nói Như Lai đời sau vừa có sinh tử, đời sau vừa không có sinh tử, đó là sắc. Nếu nói Như Lai đời sau chẳng phải có, đời sau chẳng phải không sinh tử, đó là sắc. Vì Như Lai đã diệtn tận sắc, tâm khéo giải thoát, nên nói với có sinh tử đời sau, đây là điều không đúng; hoặc đời sau không sinh tử; hoặc đời sau vừa có, đời sau vừa không; hay đời sau chẳng phải có, đời sau chẳng phải không sinh tử, điều này cũng không đúng. Vì Như Lai đã diệt tận sắc, tâm khéo giải thoát sâu xa, rộng lớn vô lượng, vô số, Niết-bàn vắng lặng. [44]

“Tôn giả Xá-lợi-phất, nếu nói Như Lai có sinh tử đời sau, đó là thọ, là tưởng, là hành, là thức, là động, là tư lự, là hư dối, là hữu vi, là ái,… cho đến, chẳng phải có chẳng phải không có sinh tử [45] đời sau cũng nói như vậy. Vì Như Lai, đã diệt tận ái, tâm khéo giải thoát, nên nói có sinh tử đời sau là không đúng; hoặc không đời sau; hoặc đời sau vừa có, đời sau vừa không; hay chẳng phải có, chẳng phải không đời sau, củng không đúng. Vì Như Lai, đã diệt tận ái, nên tâm khéo giải thoát sâu xa, rộng lớn vô lượng, vô số, Niết-bàn vắng lặng.

“Tôn giả Xá-lợi-phất, do nhân như vậy, duyên như vậy, cho nên có người hỏi Thế Tôn: ‘Như Lai hoặc có hoặc không, hoặc vừa có vừa không, chẳng phải có chẳng phải không sinh tử đời sau.’ Thế Tôn đã không ký thuyết.”

Sau khi hai vị Chánh sỹ cùng bàn luận với nhau xong, cả hai trở về chỗ của mình.

KINH 1287. PHÁP TƯƠNG HOẠI [46]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Tôn giả Ma-ha Ca-diếp đang ở tại giảng đường Lộc Tử Mẫu, vườn phía đông nước Xá-vệ. Vào buổi xế chiều, sau khi từ thiền tịnh tỉnh giấc, Tôn giả đi đền chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân, rồi ngồi xuống một bên, bạch Phật rằng:

“Bạch Thế Tôn, do nhân gì, duyên gì, trước đây Thế Tôn  ít chế cấm giới cho các Thanh văn, mà lúc ấy nhiều Tỳ-kheo tâm lại ưa thích học tập; [226c] còn ngày nay thì chế nhiều cấm giới, mà các Tỳ-kheo lại ít thích học tập?”

Phật nói với:

“Đúng vậy, Ca-diếp! Vì mạng trược, phiền não trược, kiếp trược, chúng sanh trược, kiến trược, [47] và pháp thiện của chúng sanh bị sút giảm, nên Đại Sư vì các Thanh văn chế ra nhiều cấm giới, nhưng họ lại ít thích học tập!

“Này Ca-diếp, thí như lúc kiếp sắp chuyển hoại, tuy vật báu thật chưa diệt mất, nhưng vật báu ngụy tạo tương tợ lại xuất hiện ở thế gian. Khi vật báu ngụy tạo đã xuất hiện, vật báu thật sẽ mất. Cũng vậy, Ca-diếp, Chánh pháp [48] Như Lai lúc sắp muốn diệt, lại có tượng pháp tương tợ [49] sanh ra. Khi tượng pháp tương tợ đã xuất hiện ở thế gian rồi, Chánh pháp sẽ bị diệt.

“Thí như trong biển cả, nếu thuyền chở nhiều trân nói với, chắc sẽ nhanh chóng bị đắm chìm. Chánh pháp Như Lai không như vậy, mà sẽ bị tiêu diệt từ từ. Chánh pháp của Như Lai không bị đất làm hoại, không bị nước, lửa, gió làm hoại đi. Cho đến lúc chúng sanh ác xuất hiện ở thế gian, thích làm các điều ác, muốn làm các điều ác, thành tựu các điều ác; phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp; phi luật nói là luật; bằng pháp tương tợ mà cú vị thịnh hành. Bấy giờ Chánh pháp Như Lai mới chìm mất.

“Này Ca-diếp! Có năm nhân duyên có khả năng làm cho Chánh pháp Như Lai chìm mất. Những gì là năm? Tỳ-kheo đối với Đại Sư mà không kính, không trọng, không thành ý phụng Đối với Đại Sư không kính, không trọng, không thành ý phụng sự, nhưng vẫn nương tựa để sống. Đối với pháp, hoặc học giới, hoặc giáo giới tùy thuận, hay các phạm hạnh  được Đại Sư khen ngợi cũng không kính, không trọng, không thành ý phụng sự vẫn sống y chỉ. [50] Này Ca-diếp đó gọi là năm nhân duyên làm cho Chánh pháp Như Lai biến mất nơi đây.

“Này Ca-diếp, có năm nhân duyên khiến cho pháp luật của Như Lai không chìm, không mất, không suy giảm. Những gì là năm? Đó là, Tỳ-kheo đối với Đại Sư  mà cung kính, tôn trọng, thành ýphụng sự, sống y chỉ;  đối với Pháp, hoặc học giới, hoặc giáo giới tùy thuận, hay phạm hạnh được Đại Sư khen ngợi cũng cung kính, tôn trọng, thành ý phụng sự, sống y chỉ. Này Ca-diếp, đó là năm nhân duyên làm cho pháp luật Như Lai không chìm, không mất, không sút giảm. Cho nên, này Ca-diếp, hãy học, như vầy: ‘Đối với Đại Sư nên tu cung kính, tôn trọng, thành ý phụng sự, sống y chỉ; đối với pháp, hoặc học giới, hoặc giáo giới tùy thuận, hay các phạm hạnh mà được Đại Sư khen ngợi, cung kính, tôn trọng, thành ý phụng sự, sống y chỉ.”

Sau khi Phật nói kinh này xong, Tôn giả Ma-ha Ca-diếp, hoan hỷ tùy hỷ làm [227a] lễ mà lui.


 [1] Tương ưng Đại Ca-diếp, gồm các kinh Đại chánh 905-906 (đầu quyển 32), 1136-1144 (quyển 41). Ấn Thuận Hội biên, Tụng VII. Như lai sở thuyết, “41. Tương ưng Đại Ca-diệp.”.- Quốc dịch quyển 45, Tụng 8. Như lai, “1. Tương ưng Đại Ca-diệp.” Tương đươngPāli, S. 16. Kassapasaṃyuttaṃ.

 [2] Đại chánh, quyển 41 (nửa quyên sau), kinh 1136. Pāli, S. 16. 3. Candūpama. Biệt dịch, No 100(111).

 [3] Bản Đại chánh: Xá-vệ quốc Ca-lan-đà Trúc viên, có sự nhàm lẫn.

 [4] Pāli: seyyathāpi ayaṃ ākāse pāṇi na…cittaṃ na sajjati na gayhati na bajjati, cũng như cánh tay này trong hư không, tâm không bị dính mắc, không bị nắm giữ, không bị cột trói.

 [5] Tức thử hiện thân 即此現身; Hán dịch không thống nhất. Xem các kinh Đại chánh, 550, 554, 1238, …

 [6] Đại chánh, kinh 1137. Pāli, S. 16. 4. Kulūpakaṃ. Biệt dịch, No 100(112).

 [7] Đại chánh, kinh 1138. Pāli, S. 16. 6. Ovādo.

 [8] Bàn-trù 槃稠. Pāli: Bhaṇḍa.

 [9] A-phù-tỳ 阿浮毘. Abhiñjika.

 [10] Cf. Pāli, S. ii. 216: mā te saṅgho uttari upaparikkhi, đừng để Tăng thẩm ông về sự kiện này.

 [11] Đại chánh, kinh 1139. Pāli, S. 16. 7. Ovādo. Biệt dịch, No 100(114).

 [12] Đại chánh, kinh 1140. Pāli, S. 16. 8. Ovādo. Biệt dịch, No 100(115).

 [13] Tức tỳ kheo chỉ sống bàng hạnh khất thực; trong 12 hạnh đầu đà. Tiếp theo, là một số hạnh đâu-đà được nhắc đến.

 [14] Đại chánh, kinh 1141. Tuổi quá già. Pāli, S.16. 5. Jiṇṇaṃ. Biệt dịch, No 100(116); No 125(41.5).

 [15] Cf. S. ii. 220: Lần đầu tiên gặp Phật, Ca-diếp khoác chiếc tăng-già-lê rất quý; rồi xin đỏi lấy y thô xấu của Phật.

 [16] Đầu-đà pháp 頭陀法. Pāli: dhutaguṇā.

 [17] Đại chánh, kinh 1142. Áo mảnh tồi tệ. Pāli, S. 16. 9. Jhānābhiññā. Biệt dịch, No 100(117).

 [18] Hán: a-luyện-nhã sàng tọa xứ 阿練若床坐處.

 [19] Y phục dương dương  衣服佯佯; bản TNM: bàng dương, y phục phất phơ.

 [20] Cf. S. ii. 220: satthā me, bhante, bhagavā, sāvakoham asmi, “Thưa Đại đức, Thế Tôn là Thầy của tôi. Tôi là đệ tử.” Câu nói khi Ca-diếp lần đầu trông thấy Phật.  Bằng câu này, theo các Luật tạng, Ma-ha Ca-diếp đắc giới cụ túc, thành tỳ kheo.

 [21] Đại chánh, kinh 1143. Pāli, S. 16. 10. Upassayaṃ. Biệt dịch, No 100(118).

 [22] Thâu-la Nan-đà 偷羅難陀. Pāli:  Thullanandā.

 [23] A-lê 阿梨, phiên âm từ Skt. ārya (Thánh giả), tương đương  Pāli: ayyo, kỉnh ngữ, người dưới xưng hô với người trên, không nhất thiết chỉ quả vị chứng đắc.

 [24] A-nan Tì-đề-a-mâu-ni 阿難鞞提訶牟尼. Pāli: Ānanda Vedehamuni; Sớ giải: vedehimunino ti paṇḍitamunino, vị ẩn sỹ Vedehi, nghĩa là vị ẩn sỹ quảng đại tuệ.

 [25] Hán; ngu si lão ẩu 愚癡老嫗. Pāli: bālo mātugāmo ti, ngu si là người nữ!

 [26] Xem kinh Đại chánh 1136.

 [27] Đại chánh, kinh 1144.  Pāli, S. 16. 11. Cīvaraṃ. Biệt dịch, No 100(119).

 [28] Nam Thiên trúc 南天竺. Đây chỉ địa phương phía nam Ma-kiệt-đà, không phải Nam Ấn.

 [29] Hán: đồng tử 童子. Pāli: kumārabhūtā, con nít.

 [30] Nam sơn quốc thổ 南山國土. Dakkhiṇagiri, tên tiểu quốc ở phía nam Vương xá.

 [31] S 16. 11: A-nan dẫn số đông Tỳ kheo trẻ du hành Nam sơn. Sau đó họ xả giới chỉ còn khoảng 30 người.

 [32] Hán dịch đoạn này không rõ nghĩa. Pāli: tikabhojana, một bữa ăn chỉ ba người (trở xuống). Luật tỳ kheo gòi là “Biệt chúng thừc” Tứ phần, ba-dật-đề 33, Ngũ phần, ba-dật-đề 32, Tăng-kỳ, ba-dật-đề 40; Pāli, pācittiya 32: gaṇabhojana. Bốn tỳ kheo trở lên thành một nhóm, tách ra khỏi Tăng, cùng đi khất thực chung và cùng ăn chung tại một nhà thí chủ, gọi là biệt chúng thực.

 [33] Nguyên do Đề-bà-đạt-đa tụ thành nhóm, cùng khất thực và ăn chung, cấu kết phá hòa hiệp Tăng, nên Phật quy điều luật này. Xem các Luật dẫn thượng.

 [34] Hán: túc sỹ chúng 宿士眾.

 [35] Đê-xá 低舍. Pāli: Thullanandā (Thullatissā).

 [36] Na-la 那羅聚落. Pāli: Naḷanda.

 [37] Đa tử tháp 多子塔. Pāli: Bahuputta-cetiya.

 [38] Bản Hán, hết quyển 41.

 [39] Đại chánh, quyể 31, kinh 905. Pāli, S. 16.12. Paraṃmaraṇaṃ.

 [40] Bản Pāli, Xá-lợi-phất hỏi Ca-diếp. Xem tiếp đoạn dưới.

 [41] Pāli: hoti tathāgato paraṃ maraṇā, Như lai có tồn tại sau khi chết?

 [42] Hán: vô ký 無記. Pāli: avyākata.

 [43] Hán: vô tự tánh trí 無自性智.

 [44] Pāli (S. ii. 223), Ca-diếp trả lời: vì điều ấy không liên hệ đến mục đích, không thuộc phạm hạnh căn bản, không dẫn đến yểm ly, không dẫn đến ly tham, diệt tận, tịch tĩnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

 [45] Để bản không có hai chữ sanh tử. Vì đây là cú nghĩa thứ tư của vấn đề, nên theo các nghĩa trước mà thêm cho đủ ý.

 [46] Đại chánh, kinh 906. Chánh pháp sắp diệt. Pāli, S. 16.13. Saddhammapaṭirūpakaṃ (tượng pháp).  Tham chiếu Hán, No 100(121).

 [47] Gọi là ngũ trược ác thế 五濁惡世, bản Pāli không có.

 [48] Chánh pháp 正法. Pāli: saddhamma.

 [49] Hán: tương tự tượng pháp 相似像法. Pāli: saddhammapatirūpaka, tương tự chánh pháp.

 [50] Bản Pāli: pañca okkamaniyā... satthari agāravā viharanti appatissā, dhamme agāravā... saṅghe agāravā... sikkhāya agāravā... samādhismiṃ agāravā..., năm sự thoái hóa: chúng không tôn trọng Đạo sư, sống không tùy thuận; không tôn trọng Pháp, không tôn trọng Ttăng, không tôn trọng học giới, không tôn trọng chánh định.