40. Tương Ưng Lâm, Kinh 1245-1276

40. TƯƠNG ƯNG LÂM [1]

KINH 1245. CHÚNG ĐA [2]

 [367c]Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có nhiều Tỳ-kheo ở nước Câu-tát-la du hành trong nhân gian, kết hạ an cư trong một khu rừng. Trong rừng này có Thiên thần ở, biết đến ngày mười lăm các Tỳ-kheo nhận tuổi [3], nên rất lấy làm buồn bã. Có vị Thiên thần khác nói với vị Thiên thần kia:

“Cớ sao anh sanh ra buồn rầu khổ não? Anh nên hoan hỷ, vì các Tỳ-kheo trì giới thanh tịnh, hôm nay nhận tuổi.”

Thiên thần trong rừng đáp:

“Tôi biết các Tỳ-kheo hôm nay mãn hạ, nhưng không giống ngoại đạo không xấu hỗ [4] nhận tuổi. Những Tỳ-kheo tinh tấn nhận tuổi, là sáng hôm sau ôm bát đi đến nơi khác, rừng này sẽ vắng vẻ.”

Sau khi các Tỳ-kheo đi rồi, Thiên thần trong rừng nói kệ:

Nay tâm tôi không vui,

Chỉ thấy rừng trống vắng.

Tâm thanh tịnh thuyết pháp,

Các Tỳ-kheo đa văn,

Đệ tử Đấng Cù-đàm,

Nay đang đến xứ nào?

Khi ấy, có Thiên tử khác nói kệ:

Người đến Ma-già-đà,

Người đến Câu-tát-la;

Hoặc đến Kim cương địa [5],

Mọi nơi, tu viễn ly.

Giống như cầm thú hoang,

Tùy sở thích dạo chơi.

KINH 1246. THỤY MIÊN [6]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có các Tỳ-kheo ở nước Câu-tát-la, du hành trong nhân gian, kết hạ an cư trong một khu rừng. Ban ngày thì nhập chánh thọ, [7] thân thể mệt mỏi, còn đêm đến thì ngủ. Lúc đó, trong rừng kia có Thiên thần trú ngụ, tự nghĩ: ‘Đây không phải là pháp Tỳ-kheo. Ở trong rừng vắng, ban ngày nhập chánh thọ, ban đêm lại ham ngủ nghỉ. Bây giờ ta sẽ đến thức tỉnh vị ấy.’ Thiên thần đến trước Tỳ-kheo nói kệ:

Tỳ-kheo! Thầy tỉnh dậy!

Vì sao ham ngủ nghỉ?

Ngủ nghỉ có lợi gì?

Khi bệnh sao không ngủ?

Khi gai nhọn đâm thân,

Làm sao ngủ nghỉ được?

Ngài vốn xả, không nhà,

Ý muốn đi xuất gia.

Nên như ý muốn xưa,

Cầu tăng tiến ngày đêm;

Chớ rơi vào mê ngủ,

Khiến tâm không tự tại.

 [368a]Dục vô thường, biến đổi,

Say mê nơi người ngu.

Người khác đều bị trói,

Nay ngài đã cởi trói,

Chánh tín mà xuất gia,

Vì sao ham ngủ nghỉ?

Đã điều phục tham dục,

Tâm kia được giải thoát.

Trí thắng diệu đầy đủ,

Xuất gia, sao ham ngủ?

Cần tinh tấn chánh thọ,

Thường tu sức kiên cố.

Chuyên cầu Bát-niết-bàn,

Tại sao mà ham ngủ?

Khởi minh, đoạn vô minh,

Diệt tận các hữu lậu.

Điều phục thân sau cùng,

Tại sao ham ngủ nghỉ?

Khi vị Thiên thần kia nói kệ, Tỳ-kheo này nghe xong, chuyên tinh tư duy đắc A-la-hán.

KINH 1247. VIỄN LY [8]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo ở trong rừng Câu-tát-la, nhập chánh thọ ban ngày, tâm khởi giác bất thiện, nương vào ác tham. Lúc đó, trong rừng này có vị Thiên thần đang trú ngụ, tự nghĩ: ‘Đây không phải là pháp Tỳ-kheo, ở trong rừng nhập chánh thọ ban ngày, tâm khởi giác bất thiện [9], nương vào ác tham. Bây giờ ta nên đến làm tỉnh ngộ vị ấy.’ Thiên thần kia liền nói kệ:

Tâm kia muốn viễn ly,

Cư ngụ nơi rừng vắng.

Phóng tâm theo ngoại duyên,

Dong ruổi theo loạn tưởng.

Chế ngự tâm mê đời,

Luôn vui tâm giải thoát.

Nên xả tâm không vui,

Chấp thọ, sống an lạc [10].

Tư duy không chánh niệm [11],

Chớ chấp ngã, ngã sở;

Như để bụi dính đầu,

Nếu dính rất khó phủi [12].

Chớ đắm nhiễm lạc dục,

Tâm bị dục vẩn đục;

Như Thích quân [13] cỡi voi,

Ruổi nhanh, giũ sạch bụi.

Tỳ-kheo đối tự thân,

Chánh niệm, trừ bụi bẩn;

Bụi, ấy là tham dục,

Chẳng phải bụi thế gian.

Người trí tuệ sáng suốt,

Phải tỏ bụi bẩn kia;

Nơi pháp luật Như Lai,

Giữ tâm, chớ buông lung.

 [386b]Bụi bẩn là sân nhuế,

Chẳng phải bụi thế gian;

Người trí tuệ sáng suốt,

Phải tỏ trần cấu kia.

Nơi pháp luật Như Lai,

Giữ tâm, chớ buông lung.

Bụi bẩn là ngu si,

Chẳng phải bụi thế gian.

Người trí tuệ sáng suốt,

Phải xả trần cấu kia;

Nơi pháp luật Như Lai,

Giữ tâm không buông lung.

Sau khi Thiên thần kia nói kệ rồi, Tỳ-kheo này nghe những gì vị kia đã nói, chuyên tinh tư duy, trừ bỏ phiền não, đắc A-la-hán.

KINH 1248. BẤT CHÁNH TƯ DUY [14]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo ở Câu-tát-la du hành trong nhân gian, dừng nghỉ trong một khu rừng, nhập chánh thọ ban ngày, khởi tư duy bất chính [15]. Lúc đó có một Thiên thần đang ở trong rừng này, tự nghĩ: ‘Đây không phải là pháp Tỳ-kheo, ở trong rừng nhập chánh thọ ban ngày mà khởi tư duy bất chính. Bây giờ ta nên đến dùng phương tiện khéo làm tỉnh ngộ vị ấy.’ Thiên thần kia nói kệ:

Sao tư duy bất chính,

Bị giác quán nuốt chửng?

Nên bỏ niệm bất chính,

Chuyên tu nơi chánh thọ.

Tôn trọng Phật, Pháp, Tăng,

Và tự giữ tịnh giới.

Luôn sanh tâm tùy hỷ,

Hỷ lạc càng tăng tiến.

Nhờ tâm hoan hỷ đó,

Cứu cánh, thoát khổ nhanh.

Sau khi Thiên thần kia nói kệ khuyến khích rồi, Tỳ-kheo này chuyên tinh tư duy, tận trừ các phiền não, đắc A-la-hán.

KINH 1249. GIỮA TRƯA [16]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo ở Câu-tát-la du hành trong nhân gian, ở trong một khu rừng, nhập chánh thọ ban ngày, vào lúc giữa trưa. Tỳ-kheo kia sanh tâm không vui, nói kệ:

Nơi đây trời đứng bóng,

Chim chóc đều lặng thinh;

Hoang vắng chợt có tiếng,

Làm tâm ta sợ hãi.

Lúc ấy, Thiên thần ở trong rừng kia nói kệ:

Hôm nay trời đứng bóng,

Chim chóc đều lặng thinh;

 [368c]Hoang vắng chợt có tiếng,

Vì tâm ông không vui.

Hay xả tâm không vui,

Chuyên vui tu chánh thọ.

Sau khi Thiên thần kia nói kệ làm cho Tỳ-kheo này tỉnh ngộ rồi, Tỳ-kheo này chuyên tinh tư duy, trừ bỏ phiền não, đắc A-la-hán.

KINH 1250. A-NA-LUẬT [17]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tôn giả A-na-luật-đà ở nước Câu-tát-la du hành trong nhân gian, nghỉ lại trong một khu rừng. Bấy giờ có Thiên thần tên là Xà-lân-ni [18] là thiện tri thức trước kia của Tôn giả A-na-luật, đến chỗ Tôn giả A-na-luật. Sau khi đến chỗ A-na-luật rồi nói kệ:

Nay ngài hãy phát nguyện,

Nguyện sanh về chốn cũ;

Lên trời Tam thập tam,

Vui ngũ dục đầy đủ.

Hàng trăm thứ âm nhạc,

Thường dùng để tự vui;

Mỗi khi đến giờ ngủ,

Âm nhạc báo thức giấc.

Hàng chư Thiên ngọc nữ,

Hầu hai bên ngày đêm.

Tôn giả A-na-luật nói kệ đáp:

Hàng chư Thiên ngọc nữ,

Chúng là khối khổ lớn.

Vì tưởng điên đảo kia,

Bị trói hữu thân kiến.

Người cầu sanh nơi đó,

Đây cũng là khổ lớn.

Xà-lân-ni, nên biết,

Ta không nguyện sanh kia.

Sanh tử đã hết hẳn,

Không còn tái sanh nữa.

Sau khi Tôn giả A-na-luật nói những lời này, Thiên tử Xà-lân-ni nghe những gì Tôn giả A-na-luật nói, hoan hỷ, tùy hỷ liền biến mất.

KINH 1251. TỤNG KINH [19]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo du hành trong nhân gian, nghỉ lại trong một khu rừng, siêng tụng kinh, siêng giảng thuyết, tinh tấn tư duy, đắc quả A-la-hán. Sau khi chứng quả rồi, không còn siêng tụng kinh, giảng thuyết nữa. Khi ấy có vị Thiên thần đang ở trong rừng đó, nói kệ:

Tỳ-kheo! Ngài trước kia,

Ngày đêm siêng tụng tập;

Luôn vì các Tỳ-kheo,

Cùng luận nghĩa quyết định,

 [369a]Nay, ngài đối pháp cú,

Im lặng không mở lời;

Không vì các Tỳ-kheo,

Cùng luận nghĩa quyết định.

ỳ-kheo kia nói kệ đáp:

Xưa, vì chưa ly dục,

Tâm thường ưa pháp cú.

Nay, vì đã ly dục,

Việc tụng thuyết đã xong.

Trước, biết đạo đã đủ,

Thấy, nghe đạo làm gì?

Các thấy, nghe thế gian,

Bằng chánh trí [20] buông hết.

Sau khi Thiên thần nghe những gì Tỳ-kheo nói, hoan hỷ, tùy hỷ, liền biến mất.

KINH 1252. BÁT-ĐÀM-MA [21]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo du hành trong nhân gian, nghỉ lại trong một khu rừng. Tỳ-kheo này bị bệnh mắt, vâng lời thầy thuốc dạy phải ngửi hoa bát-đàm-ma. Sau khi Tỳ-kheo kia nhận lời dạy của thầy rồi, liền đến bờ ao hoa bát-đàm-ma, ngồi theo chiều gió bên bờ ao và theo gió mà ngửi hương. Khi đó có vị Thiên thần chủ hồ này nói với Tỳ-kheo:

“Vì sao ngài trộm hoa? Ngài nay là giặc trộm hương!”

Bấy giờ, Tỳ-kheo nói kệ đáp:

Không phá cũng không đoạt,

Đứng xa ngửi hương bay.

Tại sao nay ông nói,

Ta là giặc trộm hương?

Lúc ấy, Thiên thần nói kệ:

Không xin mà tự lấy,

Thế gian gọi là giặc.

Ông, nay người không cho,

Mà tự đến ngửi lấy;

Thì thế gian gọi là,

Giặc trộm hương thật sự.

Lúc đó có một người nhổ ngó sen kia, vác cả đi. Bấy giờ Tỳ-kheo nói kệ cho Thiên thần kia:

Hiện tại, như người kia,

Bẻ gãy phân-đà-lợi,

Nhổ rễ vác cả đi,

Mới là người gian xảo.

Vì sao ông không ngăn,

Mà nói ta trộm hương?

Thiên thần kia nói kệ đáp:

Người gian xảo cuồng loạn,

Giống như áo nhũ mẫu;

Đủ thiếu gì nói thêm! [22]

Nên mới nói cùng ngài.

 [369b]Ca-sa, không thấy bẩn,

Áo đen, mực chẳng dơ.

Người hung ác gian xảo,

Thế gian không nói tới.

Chân ruồi dơ lụa trắng;

Kẻ sáng, thấy vết nhỏ.

Như mực dính hạt châu,

Tuy nhỏ nhưng thấy hết.

Thường theo kia cầu tịnh,

Không kết, lìa phiền não,

Ác tuy như lông tóc,

Người thấy như thái sơn.

Tỳ-kheo kia lại nói kệ:

Nói hay thay! Hay thay!

Dùng nghĩa an ủi tôi.

Ông hãy thường vì tôi,

Luôn luôn nói kệ này.

Thiên thần kia lại nói kệ:

Tôi chẳng phải nô lệ

Ngài mua, hay người cho;

Làm sao luôn theo ngài,

Lúc nào cũng nhắc nhở?

Nay ngài nên tự biết,

Mọi việc lợi ích kia.

Sau khi Thiên thần kia nói rồi, Tỳ-kheo này nghe những gì người ấy nói, hoan hỷ, tùy hỷ từ chỗ ngồi đứng dậy ra về, một mình nơi chỗ thanh vắng, chuyên tinh tư duy, đoạn các phiền não, đắc A-la-hán.

KINH 1253. THỢ SĂN [23]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, thành Vương xá. Bấy giờ, Tôn giả Thập Lực Ca-diếp [24] đang ở trong hang Tiên nhân [25], thành Vương xá. Lúc đó, có người thợ săn tên là Xích Chỉ, [26] cách Tôn giả Thập Lực Ca-diếp không xa, giăng lưới bắt nai. Bấy giờ, Tôn giả Thập Lực Ca-diếp vì thương xót người thợ săn kia nên thuyết pháp. Nhưng lúc đó người thợ săn kia không hiểu những gì ngài nói. Tôn giả Thập Lực Ca-diếp bèn dùng thần lực làm lửa cháy đầu ngón tay, nhưng ông vẫn không hiểu. Bấy giờ, Thiên thần đang ở trong hang Tiên nhân, nói kệ:

Thợ săn trong núi sâu,

Ít trí, mù không mắt.

Sao nói không đúng thời,

Đức mỏng, không tuệ biện?

Đã nghe cũng không hiểu,

Trong sáng cũng không thấy;

Đối mọi pháp thiện thắng,

Ngu si chẳng thể tỏ.

Dù đốt mười ngón tay,

Chúng trọn không kiến đế.

 

Sau khi Thiên thần nói kệ này xong, Tôn giả Thập Lực Ca-diếp ngồi [369c] im lặng.

KINH 1254. KIÊU-MÂU-NI [27]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, thành Vương xá. Bấy giờ, có Tôn giả Kim Cang Tử [28] ở một nơi trong rừng, tại ấp Ba-liên-phất [29]. Lúc đó dân chúng ấp Ba-liên-phất qua bốn tháng mùa hạ, mở đại hội Kiêu-mâu-ni [30]. Bấy giờ, Tôn giả Kim Cang Tử nghe dân chúng mở đại hội, sanh tâm không vui, nói kệ:

Một mình ở rừng vắng,

Giống cây khô bị bỏ.

Mùa hạ cuối tháng tư,

Thế gian ưa trang nghiêm.

Xem khắp các thế gian,

Không ai khổ hơn ta.

Khi ấy vị Thiên thần ở trong rừng liền nói kệ:

Một mình ở rừng vắng,

Giống cây khô bị bỏ.

Làm trời Tam thập tam,

Tâm thường mong an vui.

Giống như trong địa ngục,

Mong tưởng sanh cõi người.

Lúc đó Kim Cương Tử được vị Thiên thần khuyến khích rồi, chuyên tinh tư duy, đoạn các phiền não, đắc A-la-hán.

KINH 1255. CHỈ TRÌ GIỚI [31]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo du hành trong nhân gian, nghỉ lại trong một khu rừng, vì chỉ thích trì giới, nên công đức không thể tăng tiến lên được. Lúc đó vị Thiên thần trong rừng tự nghĩ: ‘Đây không phải là pháp Tỳ-kheo trụ ở trong rừng, vì chỉ thích trì giới, nên công đức không thể tăng tiến lên được. Nay ta phải dùng phương tiện làm tỉnh ngộ vị ấy.’ Liền nói kệ:

Chẳng phải chỉ trì giới,

Cùng tu tập đa văn;

Độc tĩnh thiền tam-muội,

Nhàn cư tu viễn ly.

Tỳ-kheo thiên khinh an,

Trọn không hết lậu được.

Vui chánh giác bình đẳng,

Xa lìa bọn phàm phu.

Tỳ-kheo được Thiên thần khuyên tinh tấn, chuyên tinh tư duy, đoạn các phiền não, đắc A-la-hán.

KINH 1256. NA-CA-ĐẠT-ĐA [32]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tôn giả Na-ca-đạt-đa [33] ở nước Câu-tát-la du hành trong nhân gian, [370a] nghỉ lại trong một khu rừng. Lúc ấy, có người tại gia xuất gia, thường gần gũi nhau [34]. Thiên thần ở trong rừng kia tự nghĩ: ‘Đây không phải là pháp Tỳ-kheo ở trong rừng, người xuất gia và tại gia cùng nhau thân cận, nay ta phải đến dùng phương tiện cảnh tỉnh.’ Thiên thần liền nói kệ:

Tỳ-kheo sớm ra đi,

Gần tối trở về rừng.

Đạo tục gần gũi nhau,

Khổ vui cùng chia xẻ.

E buông thói tục gia,

Để cho ma lung lạc.

Khi Tỳ-kheo Na-ca-đạt-đa được Thiên thần kia nhắc nhở như vậy rồi, chuyên tinh tư duy như vậy như vậy, đoạn các phiền não, đắc A-la-hán.

KINH 1257. PHÓNG TÚNG [35]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có các Tỳ-kheo ở Câu-tát-la du hành trong nhân gian, nghỉ lại trong một khu rừng, nói năng cười giỡn suốt ngày, tâm tán loạn không định được, buông thả các căn, chạy theo sáu cảnh. Lúc ấy Thiên thần ở trong rừng này thấy những Tỳ-kheo này không thu nhiếp oai nghi, tâm không vui, bèn nói kệ:

Trước đây chúng đệ tử

Chánh mạng của Cù-đàm,

Tâm vô thường [36], khất thực,

Vô thường, dùng giường chõng.

Quán thế gian vô thường,

Nên cứu cánh thoát khổ.

Nay có chúng khó nuôi,

Sống ở chỗ Sa-môn.

Xin ăn uống mọi nơi,

Dạo khắp hết mọi nhà;

Mong của mà xuất gia,

Không phải nguyện Sa-môn.

Tăng-già-lê lết phết,

Như trâu già kéo đuôi.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nói với Thiên thần:

“Ông chán ghét chúng tôi chăng?”

Thiên thần kia lại nói kệ:

Không chỉ tên dòng họ,

Không nêu đích danh ai,

Mà nói chung chúng này,

Nêu rõ điều bất thiện.

Tướng lậu hoặc mới bày,

Phương tiện chỉ lỗi lầm.

Ai siêng năng tu tập,

Tôi quy y kính lễ.

Sau khi được Thiên thần nhắc nhở rồi, các Tỳ-kheo kia đều chuyên tinh tư duy, đoạn các [370b] phiền não, đắc A-la-hán.

KINH 1258. GIA PHỤ [37]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo ở Câu-tát-la du hành trong nhân gian, nghỉ lại trong một khu rừng. Lúc ấy, Tỳ-kheo kia đùa giỡn với vợ con của gia chủ, bị mang tiếng xấu. Tỳ-kheo tự nghĩ: ‘Nay ta hỏng mất, mang tiếng xấu chung đụng vợ con người. Nay ta muốn tự sát ở trong rừng này.’

Lúc ấy Thiên thần ở trong rừng kia tự nghĩ: ‘Không tốt, hỏng mất rồi! Tỳ-kheo này không hư hỏng, không lỗi lầm, mà muốn tự sát ở trong rừng. Bây giờ, ta hãy đến đó tìm cách khai ngộ.’

Lúc ấy, Thiên thần kia hóa thân thành con gái của gia chủ, nói với Tỳ-kheo rằng: ‘Nơi các đường làng, giữa các ngã tư đường, mọi người đều đồn tiếng xấu về tôi và ngài rằng đã gần gũi nhau, làm những việc bất chính. Vốn đã mang tiếng xấu rồi, bây giờ ông có thể hoàn tục để cùng nhau hưởng lạc.’

Tỳ-kheo đáp:

‘Nơi các đường làng, giữa các ngã tư đường, mọi người đều đồn tiếng xấu về tôi và các cô đã cùng gần gũi nhau, làm những việc bất chính. Hôm nay tôi chỉ còn tự sát.’

Lúc ấy, Thiên thần kia liền hiện lại thân Trời, nói kệ:

Tuy mang nhiều tiếng xấu,

Người khổ hạnh nên nhẫn;

Không vì khổ, tự hại,

Cũng không nên sanh phiền.

Nghe tiếng mà sợ hãi,

Ấy là thú trong rừng;

Là chúng sanh khinh tháo,

Không thành pháp xuất gia.

Nhân giả nên nhẫn nại,

Không vướng vào tiếng xấu;

Giữ tâm, trụ vững chắc,

Đó là pháp xuất gia.

Không vì người ta nói,

Mà mình thành giặc cướp;

Cũng không vì người nói,

Mà mình đắc La-hán.

Như ngài đã tự biết,

Chư Thiên cũng biết vậy.

Sau khi được Thiên thần kia khai ngộ rồi, chuyên tinh tư duy, đoạn trừ các phiền não, đắc A-la-hán.

 

KINH 1259. KIẾN-ĐA [38]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tôn giả Tỳ-kheo Kiến-đa [39], ở Câu-tát-la du hành trong nhân gian, nghỉ lại trong một khu rừng, trì y phấn tảo. Lúc đó, Phạm thiên vương cùng với bảy trăm vị trời Phạm thiên [370c] cỡi cung điện [40] của họ đến chỗ Tôn giả Tỳ-kheo Kiến-đa, cung kính lễ bái. Lúc ấy có Thiên thần ở trong rừng ấy nói kệ:

Thấy kia các căn lặng,

Cảm đến, thiện cúng dường;

Đạt ba minh đầy đủ,

Được pháp không lay động.

Độ tất cả phương tiện,

Y phấn tảo, ít việc.

Bảy trăm vị Phạm thiên,

Nương cung điện đến đây.

Thấy sanh tử hữu biên,

Lễ vị vượt bờ hữu.

Sau khi Thiên thần kia nói kệ tán thán Tỳ-kheo Kiến-đa xong, liền biến mất.

KINH 1260. THỤY MIÊN [41]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo ở Câu-tát-la du hành trong nhân gian, nghỉ lại trong một khu rừng. Lúc này, thân thể Tỳ-kheo ấy mỏi mệt, ban đêm đến ngủ say. Lúc đó, có Thiên thần ở trong rừng này đến nhắc nhở, liền nói kệ:

Hãy tỉnh dậy Tỳ-kheo!

Vì sao lại ngủ mê?

Ngủ nghỉ có nghĩa gì?

Tu thiền chớ ngủ nghỉ.

Tỳ-kheo kia nói kệ đáp:

Không khứng, nên làm sao?

Lười biếng ít phương tiện;

Duyên hết, thân thể suy,

Nên đêm đến ngủ mê.

Thiên thần kia lại nói kệ:

Ông cần nên giữ gìn,

Vật có tiếng, kêu lớn;

Ông đã được tu nhàn,

Chớ để cho thoái thất.

Tỳ-kheo kia nói kệ đáp:

Tôi sẽ theo lời ông,

Tinh cần tu phương tiện;

Không vì mê ngủ kia,

Luôn bao phủ tâm mình.

Sau khi Thiên thần kia cảnh tỉnh Tỳ-kheo này như vậy như vậy, thì Tỳ-kheo ấy chuyên tinh phương tiện, đoạn các phiền não, đắc A-la-hán.

Thiên thần lại nói kệ:

Ông hãy tự thức tỉnh,

Chuyên tinh cần phương tiện;

Không bị bọn quân ma,

Bắt ông phải ngủ nghỉ.

Tỳ-kheo kia nói kệ đáp:

 [371a]Từ nay đến bảy đêm,

Thường ngồi chánh tư duy;

Thân này sanh hỷ lạc,

Không điều gì thiếu sót.

Đầu đêm quán túc mệnh,

Giữa đêm thiên nhãn tịnh;

Cuối đêm trừ vô minh.

Thấy khổ vui chúng sanh.

Hình loại thượng trung hạ,

Biết nhân duyên nghiệp gì,

Mà thọ quả báo này.

Nếu những gì người tạo,

Tự thấy điều đã làm;

Thiện, tự thấy là thiện;

Ác tự thấy là ác.

Thiên thần kia lại nói kệ:

Tôi biết trước tất cả,

Mười bốn người Tỳ-kheo;

Đều là Tu-đà-hoàn,

Thảy được thiền chánh thọ.

Đi đến trong rừng này,

Sẽ đắc A-la-hán.

Thấy ông chỉ giải đãi,

Nằm ngửa ham ngủ nghỉ.

Chớ sống như phàm phu,

Nên phương tiện giác ngộ.

Tỳ-kheo lại nói kệ:

Lành thay, này Thiên thần!

Dùng nghĩa an ủi tôi;

Chí thành đến khai ngộ,

Khiến tôi diệt tận lậu.

Thiên thần kia lại nói kệ:

Tỳ-kheo nên như vậy,

Tín, xuất gia, không nhà;

Ôm ngu mà xuất gia,

Chóng được kiến thanh tịnh.

Nay tôi hộ trì ông,

Trọn cả một đời này;

Khi nào ông ốm đau,

Tôi sẽ cúng thuốc hay.

Thiên thần kia nói kệ xong, liền biến mất.

KINH 1261. TỬU BÌNH [42]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất đang ở nước Câu-tát-la du hành trong nhân gian, nghỉ lại bên mé ruộng của một tụ lạc. Sáng sớm, Tôn giả Xa-lợi-phất đắp y ôm bát vào làng khất thực. Lúc đó có một Ni-kiền Tử uống rượu say cuồng, cầm bình rượu từ tụ lạc ra, thấy Tôn giả Xá-lợi-phất, bèn nói kệ:

 [371b]Mỡ, gạo ướp thân tôi,

Cầm một bình mỡ gạo;

Núi, đất và cỏ cây,

Thấy chúng toàn màu vàng.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất tự nghĩ: ‘Những tiếng dữ này được nói ra trong bài kệ, là do vật dữ kia, ta há không thể dùng kệ đáp sao?’ Lúc này, Tôn giả Xá-lợi-phất liền nói kệ:

 

Được ướp vị vô tưởng,

Cầm bình Không tam-muội;

Núi, đất và cỏ cây,

Thấy chúng như đờm giải.

KINH 1262. DÃ CAN [43]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo ở Câu-tát-la du hành trong nhân gian, nghỉ lại trong một khu rừng, tuy đã đắc tha tâm trí nhưng phiền não vẫn còn. Cách rừng không xa có cái giếng. Có dã can uống nước, cổ bị mắc kẹt trong cái gàu. Lúc đó dã can kia tìm đủ cách để thoát và tự nghĩ: ‘Trời sắp muốn sáng rồi, người nông dân nếu ra, sẽ khủng bố ta. Ngươi, cái gàu múc nước, làm ta sợ đã lâu, hãy để cho ta thoát ra.’ Lúc đó, Tỳ-kheo kia biết được tâm niệm con dã can này, liền nói kệ:

Mặt trời tuệ Phật chiếu,

Lìa rừng nói pháp Không;

Từ lâu tâm sợ ngã,

Nay nên buông xả đi.

Sau khi Tỳ-kheo tự nhắc nhở mình rồi, tất cả phiền não sạch hết, đắc A-la-hán.

KINH 1263. ƯU-LÂU ĐIỂU [44]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại nước Câu-tát-la du hành trong nhân gian, nghỉ lại ở trong một khu rừng. Bấy giờ, có một Thiên thần nương ở rừng này, thấy dấu chân đi của Phật, cúi xuống xem kỹ, liền nhớ đến Phật. Lúc đó có con chim ưu-lâu [45] đứng giữa đường, muốn bước lên dấu chân Phật. Bấy giờ, Thiên thần kia liền nói kệ:

Này, ngươi, chim ưu-lâu,

Mắt tròn đậu trên cây;

Chớ xóa vết Như Lai,

Hủy cảnh ta nhớ Phật.

Thiên thần nói kệ xong, im lặng niệm Phật.

KINH 1264. BA-TRA-LỊ HOA [46]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại nước Câu-tát-la du hành trong nhân gian, ở trong một khu rừng; dừng nghỉ dưới gốc cây ba-tra-lị [47]. Khi ấy có Thiên thần ở trong rừng này, liền nói kệ:

Hôm nay gió chợt khởi,

Thổi cây ba-tra-lị;

 [371c]Hoa tra-lị rơi đầy,

Cúng dường Đức Như Lai.

Thiên thần nói kệ xong, im lặng.

KINH 1265. KHỔNG TƯỚC [48]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, tại thành Vương xá. Bấy giờ, có các Tỳ-kheo đang trú bên sườn núi Chi-đề [49], là những Tỳ-kheo a-luyện-nhã, trì y phấn tảo, thường hành khất thực. Lúc đó Sơn thần trụ ở núi này, nói kệ:

Mình công như gấm thêu,

Ở núi Tì-đề-hê [50];

Thỉnh thoảng hót tiếng hay,

Nhắc Tỳ-kheo khất thực.

Mình công như gấm thêu,

Ở núi Tì-đề-hê;

Thỉnh thoảng hót tiếng hay,

Nhắc vị trì phấn tảo.

Mình công như gấm thêu,

Ở núi Tì-đề-hê;

Thỉnh thoảng hót tiếng hay,

Nhắc vị ngồi dưới cây.

Thiên thần nói kệ xong, im lặng.

KINH 1266. DOANH SỰ [51]

Tôi nghe như vầy:

 Một thời, Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, tại thành Vương xá. Bấy giờ, có các Tỳ-kheo ở núi Chi-đề, tất cả đều tu hạnh A-luyện-nhã, trì y phấn tảo, thường hành khất thực. Bấy giờ, bờ sông Na-sa-khư-đa [79] bị lở, làm chết ba vị Tỳ-kheo doanh sự [80]. Lúc ấy, Thiên thần núi Chi-đề nói kệ:

A-lan-nhã, khất thực,

Cẩn thận chớ xây dựng.

Không thấy sông Khư-đa,

Bờ bên chợt sạt lở,

Đè chết người xây dựng,

Ba Tỳ-kheo doanh sự?

Tỳ-kheo trì phấn tảo,

Cẩn thận chớ xây dựng.

Không thấy sông Khư-đa,

Bờ bên chợt sạt lở,

Đè chết người xây dựng,

Ba Tỳ-kheo doanh sự?

Tỳ-kheo nương gốc cây,

Cẩn thận chớ xây dựng.

Không thấy sông Khư-đa,

Bờ bên chợt sạt lở.

Đè chết người xây dựng,

Ba Tỳ-kheo doanh sự?

Thiên thần kia nói kệ xong, im lặng.

KINH 1267. TẦN-ĐÀ SƠN [52]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, thành Vương xá. [372a] Bấy giờ, có Tỳ-kheo sống trong núi Tần-đà [53]. Lúc ấy rừng trên núi chợt bốc lửa lớn, cả núi cháy rực. Lúc đó có người thế tục nói kệ:

Nay núi Tần-đà này,

Lửa cháy suốt dữ dội;

 

Thiêu rụi rừng trúc kia,

Đốt cả hoa [54], trái trúc.

Lúc ấy Tỳ-kheo kia tự nghĩ: ‘Nay, người thế tục này có thể nói kệ này, sao ta không nói kệ để đáp?’ Liền nói kệ:

Tất cả hữu cháy rực,

Không tuệ nào dập tắt;

Thiêu đốt các thọ dục,

Cũng đốt khổ bất tác.

Tỳ-kheo kia nói kệ xong, im lặng.

KINH 1268. TÙY LƯU [55]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, thành Vương xá. Bấy giờ, có Tỳ-kheo ở bên cạnh sông Hằng, trụ trong một khu rừng. Khi ấy có một cô gái thiện gia, thường bị bố mẹ chồng trách mắng, nên đến bên bờ sông Hằng, nói kệ:

Sông Hằng, nay ta muốn,

Theo dòng trôi ra biển;

Không còn để cô cậu,

Thương xuyên phải hiềm trách.

Khi Tỳ-kheo kia thấy cô gái thiện gia này, nghe nói kệ như vậy, liền tự nghĩ: ‘Cô gái này còn có thể nói kệ, nay tại sao ta không nói kệ đáp?’ Liền nói kệ:

Tịnh tín, nay ta muốn

Theo vào sông tám Thánh;

Trôi xuôi đến Niết-bàn,

Không gặp ma lung lạc.

Tỳ-kheo kia nói kệ xong, im lặng.

KINH 1269. MINH NGUYỆT [56]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Trúc, khu Ca-lan-đà, thành Vương xá. Bấy giờ, có Tỳ-kheo ở Câu-tát-la, du hành trong nhân gian, nghỉ lại trong một khu rừng. Cách rừng không xa, có ruộng trồng dưa. Đêm đó có kẻ trộm đến trộm dưa, thấy mặt trăng sắp mọc, nói kệ:

 

Trăng sáng, ngươi chớ hiện,

Đợi ta hái dưa này.

Ta đem dưa đi rồi,

Mặc ngươi hiện hay không.

Bấy giờ, Tỳ-kheo kia tự nghĩ: ‘Kẻ trộm dưa còn có thể nói kệ, chẳng lẽ ta không thể nói kệ đáp trả sao?’ Liền nói kệ:

 [372b]Ác ma, ngươi chớ hiện,

Chờ ta đoạn phiền não;

Đoạn phiền não kia rồi,

Mặc ngươi hiện hay không.

Tỳ-kheo kia nói kệ xong, im lặng.

KINH 1270. PHAN [57]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo ở Câu-tát-la, du hành trong nhân gian, sống trong một khu rừng. Lúc đó có một Sa-di nói kệ:

Thế nào gọi là thường?

Khất thực tức là thường.

Thế nào là vô thường?

Tăng ăn là vô thường.

Thế nào gọi là thẳng?

Chỉ phướn Nhân-đà-la.

Thế nào gọi là cong?

Cong, chỉ thấy móc câu.

 

Tỳ-kheo kia tự nghĩ: ‘Sa-di kia còn có thể nói kệ như vậy, nay sao ta không nói kệ mà đáp.’ Liền nói kệ:

Thế nào gọi là thường?

Thường tức là Niết-bàn.

Thế nào là vô thường?

Chỉ các pháp hữu vi.

Thế nào gọi là thẳng?

Chính là tám Thánh đạo;

Thế nào gọi là cong?

Cong là lối mòn ác.

Tỳ-kheo kia nói kệ xong, ngồi im lặng.

]

KINH 1271. NGÕA ÂU [58]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có đệ tử Xá-lợi-phất, uống thuốc xong, muốn tìm cháo ăn. Lúc đó Tôn giả Xá-lợi-phất đến nhà thợ gốm để xin cái chậu sành. Khi đó thợ gốm kia nói kệ:

Thế nào được nổi tiếng,

Mà không thí một đồng?

Thế nào thắng thật đức,

Của cải không bị giảm?

Tôn giả Xá-lợi-phất nói kệ đáp:

Như người không ăn thịt,

Mà đem thịt cho họ.

Những người tu phạm hạnh,

Mà đem nữ sắc cho.

Người không ngồi giường cao,

Mà đem giường cao cho.

Với người sắp đi kia,

Mà cho chỗ nghỉ ngơi.

Giúp đỡ cho như vậy,

Thì của cải không giảm,

 [372c]Mà lại được tiếng khen,

Và không tốn một tiền,

Thật đức danh tiếng vang,

Của cải không giảm sút.

Người thợ gốm kia lại nói kệ:

Thưa ngài Xá-lợi-phất,

Đã nói điều thật hay;

Xin cúng ngài trăm bát,

Không dư, cũng không được.

Tôn giả Xá-lợi-phất nói kệ:

Trời Tam thập tam kia,

Diệm-ma, Đâu-suất-đà,

Hóa lạc, các Trời, Người,

Cùng Tha hóa Tự tại,

Được bát sành, nhờ tín,

Mà ngươi không sanh tín.

 

Tôn giả Xá-lợi-phất nói kệ xong, im lặng đi ra khỏi nhà thợ gốm.

KINH 1272. BẦN SỸ PHU [59]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo ở Câu-tát-la, du hành trong nhân gian, sống trong một khu rừng. Lúc đó có một người nghèo ở bên cạnh rừng, tự suy nghĩ hy vọng như vậy mà nói kệ:

Nếu được một đầu heo,

Một bình đầy rượu ngon;

Đựng đầy trong một chậu,

Người luôn luôn đem cho.

Nếu mà được như vậy,

Sẽ còn lo lắng gì?

Lúc ấy Tỳ-kheo kia tự nghĩ: ‘Người nghèo này còn có thể nói kệ, nay sao ta không nói.’ Liền nói kệ:

Nếu được Phật, Pháp, Tăng,

Tỳ-kheo khéo thuyết pháp;

Ta không bệnh, nghe luôn,

Không sợ các ma oán.

Tỳ-kheo kia nói kệ này xong, ngồi im lặng [60].

KINH 1273. KIẾP-BỐI [61]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo ở Câu-tát-la, du hành trong nhân gian, sống trong một khu rừng. Tỳ-kheo kia tự nghĩ như vầy: ‘Nếu được kiếp-bối tốt, dài bảy khuỷu tay, rộng hai khuỷu tay để may cái y xong, ta vui tu thiện pháp.’

Lúc đó có vị Thiên thần nương ở trong rừng này tự nghĩ: ‘Đây không phải là pháp Tỳ-kheo, ở trong rừng mà tư duy hy vọng y tốt.’ Khi ấy Thiên thần hóa thành một bộ xương, [373a] múa trước Tỳ-kheo kia và nói kệ:

Tỳ-kheo nghĩ kiếp-bối,

Bảy khuỷu rộng sáu thước;

Ngày thì tưởng như vậy,

Đêm tư duy cái gì?

Tỳ-kheo kia lòng kinh hãi, thân sợ run, nói kệ:

Thôi! Thôi! Không cần vải,

Nay khóac y phấn tảo;

Ngày thấy bộ xương múa,

Đêm lại thấy gì đây?

Sau một phen tâm kinh sợ, Tỳ-kheo kia liền chánh tư duy, chuyên tinh tu tập, đoạn các phiền não, đắc A-la-hán.

KINH 1274. THÂM NÊ [62]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo ở Câu-tát-la, du hành trong nhân gian, nghỉ lại trong một khu rừng, đắc A-la-hán, các lậu đã diệt tận, việc cần làm đã làm xong, đã trút gánh nặng, đoạn trừ các hữu kết, chánh trí, tâm khéo giải thoát. Khi đó có một người nữ, trong đêm tối, trời mưa lâm râm, sấm chớp lóe sáng, đi ngang qua; cô đang đi đến người đàn ông khác. Cô bị té trong bùn sâu, vòng xuyến bị gãy, chuỗi hoa rơi vãi. Lúc bấy giờ, cô gái kia nói kệ:

Đầu tóc đều xổ tung,

Chuỗi hoa rơi bùn sâu;

Vòng xuyến đã gãy khúc,

Chàng đang đắm nơi đâu?

Khi ấy Tỳ-kheo kia tự nghĩ:‘Cô con gái còn có thể nói kệ, sao ta không thể nói kệ đề đáp lại?”

Phiền não đều đã bứt;

Qua vũng bùn sanh tử;

Trói buộc thảy rơi vãi,

Mười phương tôn, thấy ta.

Tỳ-kheo kia nói kệ xong, im lặng.

KINH 1275. BÊN BỜ SÔNG [63]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo ở Câu-tát-la, du hành trong nhân gian, nghỉ lại trong một khu rừng, bên bờ sông. Lúc đó có đôi vợ chồng theo nhau qua sông, đứng lại ở bên bờ, gãy đàn, đùa giỡn, rồi nói kệ:

Thương yêu mà buông lung,

Tiêu dao khoảng rừng xanh;

Nước chảy, chảy lại trong,

Tiếng đàn thật hòa mỹ.

Mùa xuân thỏa thích chơi,

Khoái lạc còn gì hơn?

Lúc đó Tỳ-kheo ấy tự nghĩ: ‘Người kia còn có thể nói kệ, sao ta không thể nói kệ đáp?”

Thọ trì giới thanh tịnh,

Mến yêu Đẳng Chánh Giác;

Tắm gội ba giải thoát,

Khéo dùng rất mát trong.

Nhập đạo đủ trang nghiêm,

Khoái lạc nào hơn đây?

Tỳ-kheo kia nói kệ xong, im lặng.

KINH 1276. CÁP ĐIỂU [64]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo ở Câu-tát-la, du hành trong nhân gian, nghỉ lại trong một khu rừng. Lúc đó có Thiên thần thấy những con chim bồ câu, liền nói kệ:

Bồ câu, hãy tích tụ,

Mè, gạo, lật vân vân,

Ở ngọn cây trên núi,

Làm hang tổ trên cao.

Nếu gặp khi trời mưa,

Yên tâm ăn uống ngủ.

Lúc ấy Tỳ-kheo kia tự nghĩ: ‘Kia cũng giác ngộ ta.’ Liền nói kệ:

Phàm phu chứa pháp lành,

Cung kính nơi Tam bảo;

Khi thân hoại mạng chung,

Tinh thần, tâm an lạc.

Tỳ-kheo nói kệ xong, liền tỉnh ngộ, chuyên tâm tư duy, dứt trừ các phiền não, đắc A-la-hán. [65]


 [1] Tương ưng lâm, gồm các kinh Đại chánh 1331-1362 (nửa sau quyển 50). Ấn Thuận, “Tụng V. Bát chúng. 27. Tương ưng lâm.” Phần lớn tương đương Pāli: S.9. Vanasaṃyutta.

 [2] Đại chánh, kinh 1331, Pāli: S.9.4. Sambahula (Cārika); No 100(351).

 [3] Nguyên Hán: thọ tuế 受歲, hết mùa an cư, Tỳ-kheo nhận tuổi hạ. Pāli: vasaṃ-vuṭṭha.

 [4] Vô tu ngoại đạo 無羞外道, ngoại đạo không biết xấu hổ; thường chỉ các nhóm Ca-cưu-đà Ca-chiên-diên (Pāli: Kakudha-Kaccāyana), Ni-kiền Tử (Pāli: Nigantha) và những nhóm lõa hình khác. Ở đây, Ud. 9.4, chỉ các nhóm Cārika, các ngoại đạo du hành.

 [5] Kim cang địa 金剛地. No 100(351): Tỳ-xá-ly quốc 毘舍離國. Pāli: Vajjibhūmi, lãnh thổ của người Vajji mà thủ phủ là Vesali, Tỳ-xá-li). Bản Hán đọc là Vajirabhūmi.

 [6] Đại chánh, kinh 1332. S. 9. 2. Upaṭṭhāna; No 100(352).

 [7] Tức ngủ ngày.

 [8] Đại chánh, kinh 133. S. 9. 1. Viveka; No 100(353).

 [9] Bất thiện giác 不善覺 , tức bất thiện tầm 不善尋, tư duy tầm cầu bất thiện.

 [10] No 100(353): “Ông hãy xả bỏ tâm không hoan hỷ, mà an tâm hoan hỷ với pháp này.” Pāli: aratiṃ pajahāsi sato, bhāvasi sataṃ taṃ sārayāmase, “ông chánh niệm, trừ bỏ sự bất mãn, chúng tôi ca ngợi ông là thiện nhân”.

 [11] Tư phi ư chánh niệm 思非於正念.

 [12] Pāli: pātālarajo hi duttaro, mā taṃ kāmarajo avāhasi, “bụi trần địa ngục thật khó trừ; ông chớ mang theo bụi trần ái dục.”

 [13] hích quân 釋君; chỉ Thiên đế Thích? Pāli: sākuṇo yathā paṃsukunthito, vidhunaṃ pātayati sitaṃ rajaṃ, “như con chim vùi mình trong cát, rùng mình, bụi rơi hết”. Bản Hán đọc: sakkanāga...?

 [14] Đại chánh, kinh 1334. S. 9. 11. Ayoniso; No 100(354).

 [15] Pāli: pāpake akusale vittake vitakketi, tầm cầu nơi ác bất thiện tầm.

 [16] Đại chánh, kinh 1335. S. 9. 12. Majjhantika; No 100(355).

 [17] Đại chánh, kinh 1336. S. 9. 6. Anuruddha; No 100(356).

 [18] Xà-lân-ni thiên tử 闍鄰尼天子. Pāli: devatā Jālinī. No 100(356): Vợ cũ của A-na-luật, đã tái sinh lên trời.

 [19] Đại chánh, kinh 1337. S. 9. 10. Sajjhāya; No 100(357).

 [20] Để bản: bất tri 不知. TNM: bất như 不如. Cf. Pāli: yaṃ kiñci diṭṭhaṃ vā sutaṃ vā mutaṃ vā, aññāya nikkhepanamāhu santo, bất cứ những gì được thấy, nghe, biết, đều bằng chánh trí mà xả hết. Trong bản Hán, aññāya (bằng chánh trí), được hiểu là aññāṇa: vô tri.

 [21] Đại chánh, kinh 1338. S. 9. 14. Padumapuppha; No 100(358).

 [22] No 100(358): “Như bà mẹ cho con bú, mặc chiếc áo đen, tuy bị dính nước giải, cũng chẳng thấy xấu hổ gì”. Pāli: ākiṇṇaluddo puriso, dhāticelaṃvā makkhito, tasmiṃ me vacanaṃ natthi, hạng người hung bạo, dơ bẩn như chiếc áo của bà vú; tôi không nói đến hạng người ấy.

 [23] Đại chánh, kinh 1339. S. 9. 3. Kassapagotta; No 100(359).

 [24] Thập Lực Ca-diếp 十力迦葉. Pāli: Kassapagotta.

 [25] Tiên nhân quật 仙人窟. No 100(359): Thê-ni quật 迻泥窟.

 [26] Xích Chỉ 尺只. No 100(358): Liên-ca 連迦.

 [27] Đại chánh, kinh 1340. Pāli, S.9. 9. Vajjiputta; No 100(360).

 [28] Kim Cang Tử 金剛子. No 100(360): Bạt-kỳ tử. Pāli: Vajjiputta. Bản Hán đọc là Vajiraputta.

 [29] Ba-liên-phất 巴連弗.

 [30] Kiêu-mâu-ni đại hội 憍牟尼大會. No 100(36): Câu-mật-đề đại hội 拘蜜提大會. Pāli: Komudī; đại hội ngày trăng tròn tháng Kattika, tháng cuối mùa mưa. S. 9. 9: sabbaracāro, dạ hành đại hội, lễ hội suốt đêm.

 [31] Đại chánh, kinh 1341. Biệt dịch, No 100(361).

 [32] Đại chánh, kinh 1342. S. 9. 7. Nāgadatta; No 100(362).

 [33] Na-ca-đạt-đa  那迦達多. No 100(362): Long Dữ 龍與. Pāli: Nāgadatta.

 [34] No 100(362): “ham mê pháp tại gia; sáng sớm vào xóm; chiều tối mới trở về”.

 [35] Đại chánh, kinh 1343. S. 9. 13. Pākatindriya (Sambahulā bhikkhū); No 100(363).

 [36] Vô thường tâm 無常心; tâm quán vô thường. No 100(363): thường tư duy vô thường 常思於無常.

 [37] Đại chánh, kinh 1344. S. 9. 8. Ogāḷho (Kulagharaṇī): No 100(364).

 [38] Đại chánh, kinh 135.

 [39] Kiến-đa 見多.

 [40] Cung điện, đây được hiểu là cỗ xe trời. Pāli: vimāna.

 [41] Đại chánh, kinh 1346.

 [42] Đại chánh, kinh 1347. Bình rượu.

 [43] Đại chánh, kinh 1348.

 [44] Đại chánh, kinh 1349.

 [45] Ưu-lâu 優樓. Pāli: ulūka, một loại cú.

 [46] Đại chánh, kinh 1350.

 [47] Ba-tra-lị 波吒利. Pāli: pāṭalī, tên một loại cây. Phật Tì-bà-thi thành Phật dưới gốc cây này.

 [48] Đại chánh, kinh 1351.

 [49] Chi-đề sơn 支提山. Pāli: Cetiya, tên núi, cũng gọi là Vedisa; xem cht. tiếp theo.

 [50] Tì-đề-hê 鞞提醯. Pāli: Vedisagiri, tên núi, cũng gọi là Cetiya, cách Pāṭaliputta khoảng năm mươi do-tuần.

 [51] Đại chánh, kinh 1352.

 [52] Đại chánh, kinh 1353.

 [53] Tần-đà sơn 頻陀山.

 [54] Để bản: uyển 苑 . Bản Tống, Ấn Thuận đọc là hoa 花

 [55] Đại chánh, kinh 1354.

 [56] Đại chánh, kinh 1355.

 [57] Đại chánh, kinh 1356.

 [58] Đại chánh, kinh 137.

 [59] Đại chánh, kinh 1358.

 [60] Để bản: trụ 住. Bản khác: khứ 去

 [61] Đại chánh, kinh 159.

 [62] Đại chánh, kinh 1360.

 [63] Đại chánh, kinh 1361.

 [64] Đại chánh, kinh 1362.

 [65] Bản hán, hết quyển 50.