8. Tương Ưng thọ, Kinh 464-488

8. THỌ TƯƠNG ƯNG [1]

KINH 465. XÚC NHÂN [2]

 [119a11]Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương-xá. Bấy giờ Tôn giả La-hầu-la đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, biết cái gì, thấy cái gì, để ở trong thân có thức này của con và trong tất cả những tướng của cảnh giới bên ngoài mà không có kết sử ngã, ngã sở, ngã mạn?”

Phật bảo La-hầu-la:

“Có ba thứ thọ; đó là khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ. Ba thọ này do nhân gì, tập gì, sanh gì, chuyển gì? Có nghĩa là ba thọ này, xúc là nhân, là tập, là sanh, là chuyển. Do xúc nhân như thế này thế kia sanh các thọ như thế này thế kia. Nếu xúc thế này thế kia diệt, thọ thế này thế kia cũng diệt, tĩnh chỉ, thanh lương, tịch tĩnh. Biết như vậy, thấy như vậy thì để ở trong thân có thức này của con và trong tất cả những tướng của cảnh giới bên ngoài mà không có kết sử ngã, ngã sở, ngã mạn.”

Phật nói kinh này xong, Tôn giả La-hầu-la nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 466. KIẾM THÍCH [3]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương-xá. Bấy giờ Tôn giả La-hầu-la đi đến chỗ Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, biết cái gì, thấy cái gì, để ở trong thân có thức này của con và trong tất cả những tướng của cảnh giới bên ngoài mà không có kết sử ngã, ngã sở, ngã mạn?”

Phật bảo Tôn giả A-nan:

“Có ba thứ thọ; đó là khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ. Quán sát lạc thọ mà tưởng là khổ; quán sát khổ thọ mà tưởng là kiếm đâm; quán sát không khổ không lạc thọ mà tưởng là vô thường. Nếu Tỳ-kheo quán sát lạc thọ mà tưởng là khổ, [119b] quán sát khổ thọ mà tưởng là kiếm đâm, quán sát không khổ không lạc thọ mà tưởng là vô thường, hoại diệt, đó gọi là chánh kiến.”

Sau đó Thế Tôn nói bài kệ:

Quán vui tưởng là khổ,

Khổ thọ như kiếm đâm,

Đối với không khổ vui,

Tu tưởng vô thường, diệt,

Đó gọi là Tỳ-kheo,

Thành tựu được chánh kiến.

Đạo an vui tịch diệt,

Trụ nơi tối hậu biên,

Vĩnh viễn lìa phiền não,

Dẹp tan chúng quân ma.

Phật nói kinh này xong, Tôn giả La-hầu-la sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 467. TAM THỌ [4]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà thành Vương-xá. Bấy giờ Tôn giả La-hầu-la đi đến chỗ đức Phật, cúi đầu đảnh lễ sat chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, biết cái gì, thấy cái gì, để ở trong thân có thức này của con và trong tất cả những tướng của cảnh giới bên ngoài mà không có kết sử ngã, ngã sở, ngã mạn?”

Phật bảo Tôn giả La-hầu-la:

“Có ba thứ thọ; đó là khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ. Khi quán sát lạc thọ, vì muốn dứt trừ tham sử [5] đối lạc thọ, nên ở nơi Ta mà tu phạm hạnh; vì muốn dứt trừ sân nhuế sử [6] đối với khổ thọ, nên ở nơi Ta mà tu phạm hạnh; vì muốn dứt trừ ngu si sử [7] dối với bất khổ bất lạc thọ, nên ở nơi Ta mà tu phạm hạnh.

“Này La-hầu-la, Tỳ-kheo đối với kết sử tham nơi lạc thọ đã dứt trừ, đã biết; đối với kết sử sân nhuế nơi khổ thọ đã dứt trừ, đã biết; đối với kết sử si nơi bất khổ bất lạc thọ đã dứt trừ, đã biết; đó gọi là Tỳ-kheo đã đoạn trừ ái dục, bứt các kết buộc, diệt kiêu mạn [8], đạt cứu cánh khổ biên. ”

Sau đó đức Thế Tôn nói bài kệ:

Khi cảm nhận lạc thọ,

Thì không biết lạc thọ

Bị tham sử sai khiến,

Không thấy đường xuất ly.

Lúc cảm nhận khổ thọ,

Thì không biết khổ thọ

Bị sân nhuế sai sử,

Không thấy đường xuất ly.

Thọ không vui không khổ,

Đấng Chánh giác đã nói,

Nếu không khéo quán sát,

Quyết không qua bờ kia.

Tỳ-kheo cần tinh tấn,

Chánh tri không động chuyển [9],

 [119c]Như tất cả thọ này,

Người trí thường hiểu biết.

Người hiểu biết các thọ,

Hiện tại hết các lậu,

Người trí sáng mạng chung,

Không liệt vào danh số, [10]

Danh số đã dứt tuyệt,

Thường nhập Niết bàn lạc.

Phật nói kinh này xong, Tôn giả La-hầu-la nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 468. THÂM HIỂM [11]

Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà nơi thành Vương-xá, bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Biển lớn sâu hiểm [12]. Đó là cái sâu hiểm mà người ngu ở thế gian này thường nói, không phải là sâu hiểm được nói trong pháp luật của Hiền thánh. Những gì mà thế gian nói về sự sâu hiểm thì đó chỉ là sự tích tụ số lượng nước nhiều mà thôi. Nếu các thọ phát sinh từ thân, các khổ bức bách, hoặc bị khốn quẫn, hoặc chết; đó mới gọi là nơi sâu hiểm vô cùng của biển lớn.

“Phàm phu ngu si không học, ở nơi các thọ phát sinh từ thân, các khổ bức bách, hoặc bị khốn quẫn, hoặc chết, sầu bi, thán oán, khóc lóc, kêu la, tâm loạn phát cuồng, mà trường kỳ chìm đắm, không chỗ dừng nghỉ.

“Đa văn Thánh đệ tử, ở nơi các thọ phát sinh từ thân, các khổ bức bách, hoặc bị khốn quẫn, hoặc chết, sầu bi, thán oán, khóc lóc, kêu la, tâm loạn phát cuồng, mà không chìm đắm sanh tử, được chỗ dừng nghỉ.”

Sau đó đức Thế Tôn nói bài kệ:

Thân sinh các khổ thọ,

Bức bách cho đến chết,

Sầu bi không chịu nỗi,

Than khóc, phát cuồng loạn.

Tâm tự sinh khốn quẫn,

Chiêu tập các khổ tăng,

Mãi chìm biển sanh tử,

Nào biết chỗ dừng nghỉ.

Xả các thọ nơi thân,

Khổ não sinh từ thân,

Bức bách cho đến chết,

Không khởi tưởng buồn lo,

Không than khóc kêu gào,

Thường nhẫn thọ các khổ,

Tâm không sinh chướng ngại,

Chiêu tập các khổ tăng,

Không chìm đắm sanh tử,

Quyết được nơi an ổn.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 469. TIỄN [13]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương-xá. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Phàm phu ngu si không học [120a] sinh khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ. Đa văn Thánh đệ tử cũng sinh khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ. Này các Tỳ-kheo, như vậy giữa phàm phu và Thánh nhơn có gì sai khác?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là căn bản của pháp, là con mắt của pháp, là sở y của pháp. Lành thay, Thế Tôn! Cúi xin nói đầy đủ. Các Tỳ-kheo sau khi nghe xong sẽ lãnh thọ thực hành.”

Phật bảo các Tỳ-kheo tiếp:

“Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà nói.

“Này các Tỳ-kheo, phàm phu ngu si không học, vì thân xúc chạm sinh các thọ, tăng thêm các khổ đau, cho đến bị cướp mất mạng sống, sầu bi, thán oán, khóc lóc, kêu gào, tâm sinh cuồng loạn. Ngay lúc đó hai thọ tăng trưởng, là thân thọ, và tâm thọ. Như có người thân bị trúng hai mũi tên độc, vô cùng đau đớn. Phàm phu ngu si không học lại cũng như vậy. Hai thọ tăng trưởng: thân thọ, tâm thọ vô cùng đau đớn, khổ sở. Vì sao? Vì phàm phu ngu si không học này không biết rõ, nên ở nơi ngũ dục mà phát sanh cảm xúc lạc thọ, lãnh thọ năm thứ dục lạc. Do lãnh thọ năm thứ dục lạc nên bị tham sử sai khiến [14]. Vì xúc chạm cảm thọ khổ nên sinh sân nhuế. Vì nổi sân nhuế nên bị nhuế sử sai khiến [15]. Nếu đối với sự tập khởi, sự diệt tận, vị ngọt, tai hại, và xuất ly của hai thọ này mà không biết như thật, vì không biết như thật nên sinh cảm thọ không khổ không lạc, bị si sử sai khiến. Nó bị lạc thọ trói buộc, mãi không thể lìa [16]; bị khổ thọ trói buộc, trọn không thể lìa; bị cảm thọ không khổ không lạc trói buộc, cuối cùng không thể lìa.

“Cái gì trói buộc? Bị tham, nhuế, si trói buộc; bị sinh, già, bệnh, chết, ưu, bi, não, khổ trói buộc.”

“Đa văn Thánh đệ tử, thân xúc sinh khổ thọ, khổ lớn bức bách… cho đến cướp mất sinh mạng, mà không khởi lo buồn, thán oán, khóc lóc, kêu gào, loạn tâm phát cuồng. Ngay lúc đó chỉ sinh một thứ thọ, đó là thân thọ, chứ không sinh tâm thọ. Như người bị một mũi tên độc, không bị mũi tên độc thứ hai, ngay khi đó chỉ sinh có một cảm thọ, đó là thân thọ mà không sinh tâm thọ. Khi xúc chạm lạc thọ, không nhiễm dục lạc. Vì không nhiễm dục lạc nên đối với lạc thọ này, tham sử không sai khiến. Khi xúc chạm khổ thọ, không sinh sân nhuế; vì không sinh sân nhuế, nên nhuế [120c] sử không thể sai khiến. Nếu đối với sự tập khởi, sự diệt tận, vị ngọt, tai hại, sự xuất ly của hai sử này mà biết như thật, vì biết như thật cảm thọ không khổ không lạc, nên si sử không thể sai khiến được. Đối với lạc thọ được giải thoát, không bị trói buộc; khổ thọ, và không khổ không lạc thọ cũng được giải thoát, không bị trói buộc.

“Không bị cái gì trói buộc? Tham, nhuế, si không trói buộc; sinh, già, bệnh, chết, ưu, bi, não, khổ không trói buộc.”

Bấy giớ, đức Thế Tôn nói bài kệ:

Đa văn đối khổ vui,

Không phải không cảm giác;

So với kẻ không học,

Người này thật xa khác [17].

Thọ lạc, không buông lung,

Gặp khổ không tăng sầu;

Khổ vui thảy đều bỏ,

Không thuận cũng không trái.

Tỳ-kheo siêng phương tiện,

Chánh trí không khuynh động [18],

Đối với các thọ này,

Trí tuệ thường biết rõ.

Vì biết rõ các thọ,

Hiện tại sạch các lậu,

Thân chết, không danh sốc [19],

An trú đại Niết bàn.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 470. HƯ KHÔNG [20]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương-xá. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Như giữa hư không, gió lộng từ bốn phương thổi đến như: gió có bụi bặm, gió không bụi bặm, gió tỳ-thấp-bà [21], gió tỳ-lam-bà [22], gió mỏng, gió dày, cho đến phong luân gió dậy. Gió cảm thọ trong thân cũng như vậy. Đủ các thứ thọ khởi lên như: lạc thọ, khổ thọ, không khổ không lạc thọ. Đó là những cảm thọ lạc của thân, cảm thọ khổ của thân, cảm thọ không khổ không lạc của thân; cảm thọ lạc của tâm, cảm thọ khổ của tâm, cảm thọ không khổ không lạc của tâm; cảm thọ thực vị lạc [23], cảm thọ thực vị khổ, cảm thọ thực vị không khổ không lạc; cảm lạc thọ phi thực vị, cảm thọ khổ phi thực vị, cảm thọ không khổ không lạc phi thực vị; cảm thọ lạc do tham, cảm thọ khổ do tham, cảm thọ không khổ không vui do tham; cảm thọ lạc xuất ly, cảm thọ khổ xuất ly, cảm thọ không khổ không lạc xuất ly.”

Bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài kệ:

Như ở giữa hư không,

Các gió cuồng nổi dậy,

Gió đông, tây, nam, bắc,

Bốn phương đều như vậy.

Có bụi và không bụi,

Cho đến phong luân khởi.

Cũng vậy trong thân này,

Các thọ cũng dấy lên.

 [120b] Hoặc lạc, hoặc khổ thọ,

Và không khổ không lạc,

Vâth dục, phi vật dục,

Tham trước không tham trước.

Tỳ-kheo siêng phương tiện,

Chánh trí không lay động [24],

Đối với các thọ này,

Trí tuệ thường biết rõ.

Vì biết rõ các thọ,

Hiện tại sạch các lậu,

Thân chết, không danh sốc [25],

An trụ Bát Niết bàn.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 471. KHÁCH XÁ [26]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương-xá. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Như nhà khách có đủ hạng người đến ở. Hoặc Sát-lị, Bà-la-môn, gia chủ, cư sĩ, người nhà quê, thợ săn, người trì giới, người phạm giới, người tại gia, người xuất gia. Tất cả đều trọ ở trong đó. Thân này cũng lại như vậy. Đủ các thứ thọ sinh khởi như: khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ; thân thọ lạc, thân thọ khổ, thân thọ không khổ không lạc; tâm thọ lạc, tâm thọ khổ, tâm thọ không khổ không lạc; cảm thọ thực vị lạc [27], cảm thọ thực vị khổ, cảm thọ thực vị không khổ không lạc; cảm thọ phi thực vị lạc, cảm thọ phi thực vị khổ, cảm thọ phi thực vị không khổ không lạc; cảm thọ lạc do tham trước, cảm thọ khổ do tham trước, cảm thọ không khổ không lạc do tham trước; cảm thọ lạc xuất ly, cảm thọ khổ xuất ly, cảm thọ không khổ không lạc xuất ly.”

Bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài kệ:

Như ở trong nhà khách,

Đủ hạng người ở trọ,

Sát lợi, Bà-la-môn,

Gia chủ và cư sĩ,

Chiên đà la, dân quê,

Người trì giới, phạm giới,

Kẻ tại gia, xuất gia,

Nhiều hạng người như vậy.

Thân này cũng như vậy,

Các thứ cảm thọ sinh,

Hoặc vui, hoặc khổ thọ,

Và không khổ không lạc,

Thực vị, phi thực vị,

Tham đắm, không tham đắm.

Tỳ-kheo siêng phương tiện,

Chánh trí không lay động,

Đối với các thọ này,

Trí tuệ thường biết rõ,

Vì biết rõ các thọ,

Hiện tại hết các lậu,

Thân chết, không danh số,

An trụ Bát Niết bàn. [120c]

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 472. THIỀN [28]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương-xá. Bấy giờ, có Tỳ-kheo một mình ở chỗ vắng [29], thiền tịnh, tư duy: ‘Thế Tôn nói ba thọ: lạc thọ, khổ thọ, không khổ không lạc thọ; lại nói những gì thuộc về thọ thảy đều là khổ. Vậy, điều này có nghĩa gì?”

Tỳ-kheo này suy nghĩ như vậy rồi, sau khi từ thiền tịnh tỉnh giấc, thầy đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật, rồi đứng lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con ở chỗ vắng, trong lúc thiền tịnh tư duy có nghĩ rằng: ‘Thế Tôn nói ba thọ: lạc thọ, khổ thọ, không khổ không lạc thọ; lại nói những gì thuộc về thọ thảy đều là khổ. Vậy, điều này có nghĩa gì?”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Ta vì tất cả hành đều vô thường, tất cả hành là pháp biến đổi nên nói những gì thuộc về thọ thảy đều là khổ.”

Bấy giới, đức Thế Tôn nói bài kệ:

Biết các hành vô thường,

Đều là pháp biến dịch,

Nên nói thọ là khổ,

Chánh giác biết điều này.

Tỳ-kheo siêng phương tiện,

Chánh trí không lay động,

Đối với tất cả thọ,

Trí tuệ thường biết rõ.

Biết rõ tất cả thọ,

Hiện tại hết các lậu,

Thân chết, không danh số,

An trụ Bát Niết bàn.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 473. CHỈ TỨC [30]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương-xá. Bấy giờ, Tôn giả A-nan ở một mình chỗ vắng, trong lúc thiền tịnh tư duy, suy nghĩ rằng: ‘Thế Tôn nói ba thọ: lạc thọ, khổ thọ, không khổ không lạc thọ; lại nói những gì thuộc về thọ thảy đều là khổ. Vậy điều này có nghĩa gì?’

Suy nghĩ vậy rồi, sau khi từ thiền tịnh tỉnh giấc, A-nan đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi đứng lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, lúc con một mình ở chỗ vắng, thiền tịnh tư duy, suy nghĩ rằng: ‘Như lời Thế Tôn nói ba thọ: lạc thọ, khổ thọ, không khổ không lạc thọ; lại nói những gì thuộc về thọ thảy đều là khổ. Vậy điều này có nghĩa gì?”

Phật bảo A-nan:

“Ta vì tất cả hành là vô thường, tất cả hành là pháp biến đổi, nên nói những gì thuộc về thọ đều là khổ. Lại nữa, A-nan, Ta vì các hành tuần tự tịch diệt [31], vì các hành tuần tự tĩnh chỉ [32], nên Ta nói tất cả thọ [121b] đều là khổ.”

A-nan bạch Phật:

“Thế Tôn vì các hành tuần tự tịch diệt mà nói, là nghĩa thế nào?”

Phật bảo A-nan:

“Khi nhập [33] sơ thiền, ngôn ngữ tịch diệt. Nhập nhị thiền thì tầm tứ [34] tịch diệt. Nhập tam thiền, tâm hỷ tịch diệt [35] Nhập tứ thiền, hơi thở ra vào tịch diệt. Nhập kông vô biên xứ, [36] sắc tưởng tịch diệt. Nhập thức vô biên xứ [37] thì tưởng không vô biên vắng lặng. Nhập vô sở hữu nhập xứ, tưởng thức vô biên xứ tịch diệt. Nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ, tưởng vô sở hữu xứ tịch diệt. nhập tưởng thọ diệt, tưởng và thọ tịch diệt. Đó gọi là các hành dần dần vắng lặng.”

A-nan bạch Phật:

“Thế Tôn vì các hành tuần tự tĩnh chỉ mà nói, là nghĩa thế nào?”

Phật bảo A-nan:

“Khi nhập sơ thiền, ngôn ngữ tĩnh chỉ. Nhập nhị thiền thì tầm tứ tĩnh chỉ. Nhập tam thiền, tâm hỷ tĩnh chỉ. Nhập tứ thiền, hơi thở ra vào tĩnh chỉ. Nhập không vô biên xứ, sắc tưởng tĩnh chỉ. Nhập thức vô biên xứ thì tưởng không vô biên xứ tĩnh chỉ. Nhập vô sở hữu nhập xứ, tưởng thứcvô biên xứ tĩnh chỉ. Nhập phi tưởng phi phi tưởngp xứ, tưởng vô sở hữu pxứ tĩnh chỉ. nhập tưởng thọ diệt, tưởng và thọ tĩnh chỉ. Đó gọi là các hành tuần tự tĩnh chỉ.”

A-nan bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, có phải đó gọi là các hành tuần tự tĩnh chỉ?”

Phật bảo A-nan:

“Lại có sự tĩnh chỉ thù thắng, tĩnh chỉ kỳ đặc, tĩnh chỉ tối thượng, tĩnh chỉ vô thượng. Sự tĩnh chỉ như vậy, đối với những sự tĩnh chỉ khác, không gì hơn được.”

A-nan bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, những gì là tĩnh chỉ thù thắng, tĩnh chỉ kỳ đặc, tĩnh chỉ tối thượng, tĩnh chỉ vô thượng. Sự tĩnh chỉ như vậy, đối với những sự tĩnh chỉ khác, không gì hơn được?”

Phật bảo A-nan:

“Đối với tham dục, mà tâm ly nhiễm, giải thoát; với sân nhuế, mà tâm ly nhiễm, giải thoát, đó gọi là tĩnh chỉ thù thắng, tĩnh chỉ kỳ đặc, tĩnh chỉ tối thượng, tĩnh chỉ vô thượng. Sự tĩnh chỉ như vậy, đối với những sự tĩnh chỉ khác, không gì hơn được.”

Phật nói kinh này xong, Tôn giả A-nan nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 474. TIÊN TRÍ [38]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương-xá. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Phật Tì-bà-thi, khi chưa thành đạo, một mình ở chỗ thanh vắng thiền tịnh tư duy, bằng quán sát thọ như vầy mà quán sát các thọ: ‘Thế nào là thọ? Thế nào là sự tập khởi thọ? Thế nào là sự diệt tận của thọ? [121c] Thế nào là con đường đưa đến sự diệt tận của thọ? Thê nào là vị ngọt của thọ? Thế nào là sự tai hại của thọ? Thế nào là sư xuất ly thọ?’ Như vậy quán sát, có ba thọ: khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ. Khi xúc tập khởi thì thọ tập khởi, khi xúc diệt thì thọ diệt. Nếu đối với thọ mà hoan hỷ, tán thán, đắm nhiễm, hệ lụy, đó gọi là con đường đưa đến sự tập khởi của thọ. Nếu đối với thọ mà không hoan hỷ, tán thán, đắm nhiễm, hệ lụy, đó gọi là con đường đưa đến sự diệt tận của thọ. Hỷ lạc do nhân duyên thọ mà sanh, đó gọi là vị ngọt của thọ. Cảm thọ là vô thường, là pháp biến dịch; đó gọi đó là sự tai hại của thọ. Đối với cảm thọ mà đoạn trừ dục tham, vượt qua dục tham, gọi đó là xuất ly thọ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

“Giống như Phật Tì-bà-thi, Phật Thi-khí, Phật Tì-thấp-bà-phù, Phật Ca-la-ca-tôn-đề, Phật Ca-na-ca-mâu-ni, Phật Ca-diếp và Ta là Phật Thích-ca Văn, khi chưa thành Phật, cũng lại tư duy quán sát các thọ như vậy.”

KINH 475. THIỀN TƯ [39]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương-xá. Bấy giờ, có Tỳ-kheo một mình ở chỗ vắng vẻ, thiền tịnh tư duy, quán sát các thọ như vầy: ‘Thế nào là thọ? Thế nào là sự tập khởi của thọ? Thế nào là sự diệt tận của thọ? Thế nào là con đường đư đến sự tập khởi của thọ? Thế nào là con đường đưa đến sự diệt tận của thọ? Thế nào là vị ngọt của thọ? Thế nào là sự tai hại của thọ? Thế nào là xuất ly thọ?’”

Tỳ-kheo này sau khi từ thiền tịnh tỉnh giấc, đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân phật, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, con một mình ở nơi chỗ vắng thiền tịnh, tư duy, quán sát các thọ:‘Thế nào là thọ? Thế nào là sự tập khởi của thọ? Thế nào là sự diệt tận của thọ? Thế nào là con đường đưa đến sự tập khởi của thọ? Thế nào là con đường đưa đến sự diệt tận của thọ? Thế nào là vị ngọt của thọ vị? Thế nào là sự tai hại của thọ? Thế nào là xuất y thọ?’”

Phật bảo Tỳ-kheo:

“Có ba thọ: khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ. Khi xúc tập khởi thì thọ tập khởi, khi xúc diệt tận thì thọ diệt tận. Đối với thọ mà ham muốn, khen ngợi, đắm nhiễm, hệ lụy, đó gọi là con đường đưa đến sự tập khởi của thọ. Đối với thọ mà không ham muốn, khen ngợi, đắm nhiễm, hệ lụy, đó gọi là con đường đưa đến sự diệt tận của thọ. Hỷ lạc do nhân duyên thọ mà sanh, đó gọi là vị ngọt của thọ. Cảm thọ là vô thường, là pháp biến dịch, đó gọi đó là sự tai hại của thọ. Đối với cảm thọ mà đoạn trừ dục tham, vượt qua dục tham, gọi đó là xuất ly thọ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 476. AN-NAN SỞ VẤN [40]

Như kinh Tỳ-kheo hỏi ở trên, kinh này Tôn giả A-nan cũng [122a] hỏi như vậy.

KINH 477. TỲ KHEO [41]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương-xá. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Thế nào là thọ? Thế nào là sự tập khởi của thọ? Thế nào là sự diệt tận của thọ? Thế nào là con đường đưa đến sự tập khởi của thọ? Thế nào là con đường đưa đến sự diệt tận của thọ?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là căn bản của pháp, là con mắt của pháp, là sở y của pháp. Lành thay, Thế Tôn! Cúi xin nói đầy đủ, các Tỳ-kheo sau khi nghe xong sẽ lãnh thọ thực hành.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà nói.

“Này các Tỳ-kheo, có ba thọ: khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ. Khi xúc tập khởi thì thọ tập khởi, khi xúc diệt tận thọ diệt tận. Đối với thọ mà ham muốn, khen ngợi, đắm nhiễm, hệ lụy, đó gọi là con đường đưa đến sự tập khởi của thọ. Đối với thọ mà không ham muốn, khen ngợi, đắm nhiễm, hệ lụy, đó gọi là con đường đưa đến sự diệt tận của thọ. Hỷ lạc do nhân duyên thọ mà sanh, đó gọi là vị ngọt của thọ. Cảm thọ là vô thường, là pháp biến dịch, đó gọi đó là sự tai hại của thọ. Đối với cảm thọ mà đoạn trừ dục tham, vượt qua dục tham, gọi đó là xuất ly thọ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 478. GIẢI THOÁT [42]

Một thời, Phật trú trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương-xá. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu Ta không biết như thật đối với các thọ; không biết như thật đối với sự tập khởi của thọ, sự diệt tận của thọ, con đường đưa đến sự tập khởi của thọ, con đường đưa đến sự diệt tận của thọ, vị ngọt của thọ, sự tai hại của thọ, xuất ly thọ; thì Ta ở giữa chư Thiên, thế gian, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, và các chúng trời, người, không được giải thoát, xuất ly, thoát khỏi các điên đảo, cũng không phải Chánh đẳng Chánh giác [43]. Vì Ta biết như thật đối với các thọ, sự tập khởi của thọ, sự diệt tận của thọ, con đường đưa đến sự tập khởi của thọ, con đường đưa đến sự diệt tận của thọ, vị ngọt của thọ, sự tai hại của thọ, xuất ly thọ, nên ở giữa chư Thiên, thế gian, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, và các chúng trời, người, Ta là bậc giải thoát, là bậc xuất ly, là bậc ra khỏi các điên đảo, và đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 479. SA-MÔN BÀ-LA-MÔN [44]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương-xá. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào mà không biết như thật đối với các thọ; không biết như thật đối với sự tập khởi của thọ, sự diệt tận của thọ, con đường đưa đến sự tập khởi của thọ, con đường đưa đến sự diệt tận của thọ, vị ngọt của thọ, sự tai hại của thọ, xuất ly thọ, người này không phải là Sa-môn, [122b] không phải là Bà-la-môn, không đồng với Sa-môn, Bà-la-môn, cũng không phải nghĩa Sa-môn, cũng không phải nghĩa Bà-la-môn, ngay trong đời hiện tại không tự tri tự tác chứng, tự biết rằng ‘Ta, sự sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”

“Nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào mà biết như thật đối với các thọ; biết như thật đối với sự tập khởi của thọ, sự diệt tận của thọ, con đường đưa đến sự tập khởi của thọ, con đường đưa đến sự diệt tận của thọ, vị ngọt của thọ, sự tai hại của thọ, xuất ly thọ, người này là Sa-môn của Sa-môn, Bà-la-môn của Bà-la-môn, đồng với Sa-môn, đồng với Bà-la-môn, đúng nghĩa Sa-môn, đúng nghĩa Bà-la-môn, ngay trong đời hiện tại tự tri tự tác chứng, tự biết rằng ‘Ta, sự sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

Như Sa-môn, không phải Sa-môn. Cũng vậy, Sa-môn số và không phải Sa-môn số cũng đều như vậy.

KINH 480. NHẤT-XA-NĂNG-GIÀ-LA [45]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú trong rừng Nhất-xa-năng-già-la [46], nước Nhất-xa-năng-già-la. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Ta muốn ở lại tại đây nửa tháng để tọa thiền. Các Tỳ-kheo chớ lui tới nữa nữa, trừ người mang thức ăn, [47] và khi bố-tát.”

Rồi Phật tọa Thiền, không du hành nữa.

Bấy giờ, qua nửa tháng, Thế Tôn trải tọa cụ ngồi trước đại chúng, và bảo các Tỳ-kheo:

“Khi Ta, bằng một phần ít thiền của thiền pháp được tư duy khi mới thành Phật, nay trong tháng này, tư duy rằng: Sự sanh khởi của tất cả cảm thọ của chúng sanh đều có nhân duyên, không phải không có nhân duyên.

“Những gì là nhân duyên? Dục là nhân duyên, tầm [48] là nhân duyên, xúc là nhân duyên. [49] Này các Tỳ-kheo, nơi dục không tịch diệt, tầm không tịch diệt, xúc không tịch diệt, do nhân duyên này mà cảm thọ của chúng sanh phát sinh. Do nhân duyên không tịch diệt nên cảm thọ của chúng sanh phát sinh.

“Ở đó nếu dục tịch diệt, nhưng tầm không tịch diệt, xúc không tịch diệt, [50] do nhân duyên này mà cảm thọ của chúng sanh phát sinh. Do nhân duyên không tịch diệt nên cảm thọ của chúng sanh phát sinh. 

“Ở đó nếu dục tịch diệt, tầm tịch diệt, nhưng xúc không diệt tận, [51] do nhân duyên này mà cảm thọ của chúng sanh phát sinh. Do nhân duyên không tịch diệt nên cảm thọ của chúng sanh phát sinh. 

“Ở đó dục tịch diệt, tầm tịch diệt, xúc tịch diệt; [52] do nhân duyên đó mà cảm thọ của chúng sanh pháp sanh; tức là do nhân duyên tịch diệt kia [122c] cảm thọ của chúng sanh phát sanh. [53]

“Do nhân duyên tà kiến nên cảm thọ của chúng sanh phát sanh. Do nhân duyên tà kiến không tịch diệt nên cảm thọ của chúng sanh phát sanh; do nhân duyên tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định, tà giải thoát, và tà trí, nên cảm thọ của chúng sanh pháp sanh. Do nhân duyên tà trí không tịch diệt nên cảm thọ của chúng sanh pháp sanh.

“Do nhân duyên chánh kiến nên cảm thọ của chúng sanh phát sanh. Do nhân duyên chánh kiến tịch diệt nên cảm thọ của chúng sanh phát sanh; do nhân duyên chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, chánh giải thoát, và chánh trí nên cảm thọ của chúng sanh phát sanh; do nhân duyên chánh trí tịch diệt nên cảm thọ của chúng sanh phát sanh.

“Nếu dục kia chưa đạt được nay để đạt được, chưa thu hoạch nay để thu hoạch, chưa chứng nay để chứng, do nhân duyên này mà cảm thọ của chúng sanh phát sanh. Do nhân duyên tịch diệt kia nên cảm thọ của chúng sanh phát sanh. [54] Đó gọi là do nhân duyên không tịch nên cảm thọ của chúng sanh phát sanh; và do nhân duyên tịch diệt nên cảm thọ của chúng sanh phát sanh.

“Nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào, không biết như thật đối với duyên duyên, sự tập khởi của duyên duyên, sự diệt tận của duyên duyên, con đường đưa đến sự tập khởi của duyên duyên, con đường đưa đến sự diệt tận của duyên duyên như vậy, người này không phải là Sa-môn của Sa-môn, không phải Bà-la-môn của Bà-la-môn, không đồng với Sa-môn của Sa-môn, không đồng với Bà-la-môn của Bà-la-môn, không đúng nghĩa Sa-môn, không đúng nghĩa Bà-la-môn, ngay trong hiện tại không tự tri, tự tác chứng, tự biết rằng ‘Ta, sự sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’

“Nếu Sa-môn, Bà-la-môn nào mà biết như thật đối với duyên duyên, sự tập khởi của duyên duyên, sự diệt tận của duyên duyên, con đường đưa đến sự tập khởi của duyên duyên, con đường đưa đến sự diệt tận của duyên duyên như vậy, người này là Sa-môn của Sa-môn, là Bà-la-môn của Bà-la-môn, đồng với Sa-môn của Sa-môn, đồng với Bà-la-môn của Bà-la-môn, đúng nghĩa Sa-môn, đúng nghĩa Bà-la-môn, ngay trong hiện tại tự tri, tự tác chứng, tự biết rằng ‘Ta, sự sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.’ 

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 481. HỶ LẠC [55]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, đang mùa hạ an cư, gia chủ Cấp Cô Độc đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên. Đức Phật vì gia chủ, bằng nhiều hình thức mà thuyết pháp, khai thị, soi sáng, chỉ dạy, làm cho hoan hỷ. Sau khi được Phật khai thị, soi sáng, chỉ giáo, làm cho hoan hỷ, gia chủ đứng dậy sửa lại y phục, đảnh lễ sát chân Phật, rồi chấp tay, bạch Phật:

“Cúi xin Thế Tôn và đại chúng từ bi thọ nhận lời thỉnh nguyện của con, trong ba tháng hạ, con cúng dường, y phục, ẩm thực, y dược, ngọa cụ.”

Bấy [113a] giờ đức Thế Tôn yên lặng nhận lời.

Khi ấy Cấp Cô Độc biết Phật đã yêm lặng nhận lời rồi, đứng dậy từ giã trở về nhà mình. Qua ba tháng, ông đến chỗ Phật, lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên. Phật bảo Cấp Cô Độc:

“Lành thay, gia chủ! Ông ba tháng đã cúng dường y phục, ẩm thực, y dược, ngọa cụ. Ông do vào sự trang nghiêm tịnh trị thượng đạo [56] này, mà ở đời vị lai sẽ được phước báo an lạc. Nhưng hiện tại Ông không nên mặc nhiên thụ hưởng sự an lạc này, Ông phải tinh tấn lúc nào cũng học, để thành tựu và tự thân tác chứng hỷ lạc do viễn ly. ”

Bấy giờ, gia chủ Cấp Cô Độc nghe Phật dạy như vậy, tùy hỷ hoan hỷ, đứng dậy đảnh lễ ra về.

Lúc ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất đang ngồi giữa đại chúng, biết ông Cấp Cô Độc đã về rồi, liền bạch Phật:

“Kỳ diệu thay, Thế Tôn! Khéo vì gia chủ Cấp Cô Độc thuyết pháp khích lệ ông Cấp Cô Độc rằng: ‘Ông ba tháng đã cúng dường y phục, ẩm thực, y dược, ngọa cụ. Ông do vào sự tịnh trị thượng đạo này, mà ở đời vị lai sẽ được phước báo an lạc. Nhưng hiện tại Ông không nên mặc nhiên thụ hưởng phước báo này, Ông phải tinh tấn lúc nào cũng học, để thành tựu và tự thân tác chứng hỷ lạc do viễn ly.’

“Bạch Thế Tôn, giả sử Thánh đệ tử học để thành tựu và tự thân tác chứng hỷ lạc do viễn ly, có thể viễn ly năm pháp, phải tu tập viên mãn năm pháp.

“Thế nào là viễn ly năm pháp? Đoạn trừ hỷ được nuôi lớn bởi dục, đoạn trừ ưu được nuôi lớn bởi dục, đoạn trừ xả được nuôi lớn bởi dục; đoạn trừ hỷ được nuôi lớn bởi pháp bất thiện, đoạn trừ ưu được nuôi lớn bởi pháp bất thiện. Đó gọi là năm pháp viễn ly.

“Thế nào là tu tập viên mãn năm pháp? Đó là tùy hỷ, hoan hỷ, khinh an [57], lạc và nhất tâm.”

Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

“Đúng thế, đúng thế ! Thánh đệ tử học để thành tựu và tự thân tác chứng hỷ lạc do viễn ly, có thể viễn ly năm pháp, cần tu tập viên mãn năm pháp..”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 482. VÔ THỰC LẠC [58]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Có niệm có thực vị, có niệm không thực vị [59], có niệm vừa không thực vị vừa có thực vị. Có lạc có thực vị, có lạc không thực vị, có lạc vừa không thực vị vừa có hực vị. Có xả có thực vị, có niệm không thực vị, có xả vừa không thực vị vừa có thực vị. Có giải thoát có thực vị, có giải thoát không thực vị, có giải thoát vừa không thực vị vừa có thực vị.

“Thế nào là niệm có thực vị? Niệm [60] sinh ra do năm dục làm nhân duyên.

“Thế nào là niệm không thực vị? Tỳ-kheo ly [123b] dục, ly pháp ác bất thiện; có tầm, có tứ, có hỷ lạc do viễn ly sanh, thành tưu và an trụ sơ thiền. Đó gọi là niệm không thực vị.

“Thế nào là niệm vừa không thực vị vừa có thực vị? Tỳ-kheo có tầm, có tứ, nội tỉnh nhất tâm; không tầm, không tứ, có hỷ lạc do định sanh, thành tưu và trụ nhị thiền. Đó gọi là niệm vừa không thực vị vừa có thực vị.

“Thế nào là lạc có thực vị? Lạc, hỷ, do năm dục làm nhân duyên sinh ra. Đó gọi là lạc có thực vị.

“Thế nào là lạc không thực vị? Dứt có tầm có tứ, nội tỉnh nhất tâm; không tầm, không tứ, có hỷ lạc do định sinh. Đó gọi là vô thực lạc.

“Thế nào là lạc vừa không thực vị vừa có thực vị? Tỳ-kheo lìa hỷ, tham, an trụ xả tâm với chánh niệm, chánh tri, trụ an lạc, điếu mà Thánh nói là xả. Đó gọi là lạc vừa không thực vị vừa có thực vị.

“Thế nào là xả có thực vị? Xả do ngũ dục làm nhân duyên sinh ra. Đó gọi là xả có thực vị.

“Thế nào là xả không thực vị? Tỳ-kheo lìa hỷ tham, an trụ xả tâm, với chánh niệm, chánh tri, an trụ lạc, điều Thánh nói xả, thành tưu và an trú tam thiền. Đó gọi là xả không thực vị.

“Thế nào là xả vừa không thực vị vừa có thực vị? Tỳ-kheo xa lìa khổ, dứt lạc; ưu và hỷ trước đã dứt, không khổ không lạc, xả và niệm thanh tịnh, nhất tâm, thành tưu và an trụ tứ thiền. Đó gọi là vừa không thực vị vừa có thực vị.

“Thế nào là giải thoát có thực vị? Hành cùng đi với sắc [61].

“Thế nào là vô thực giải thoát? Hành cùng đi với vô sắc.

“Thế nào là giải thoát vừa không thực vị vừa có thực vị? Tỳ-kheo kia, giải thoát với tâm không nhiễm tham dục, không nhiễm sân nhuế, ngu si,. Đó gọi là giải thoát vừa không thực vị vừa có thực vị.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 483. BẠT-ĐÀ-La [62]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Tôn giả Bạt-đà-la [63] và Tôn giả A-nan đều ở vườn Cấp Cô Độc rừng cây Kỳ-đà. Khi ấy Tôn giả A-nan đi đến chỗ Tôn giả Bạt-đà-la. Sau khi thăm hỏi sức khỏe xong, ngồi xuống một bên, Tôn giả A-nan hỏi Tôn giả Bạt-đà-la:

“Thế nào gọi là thấy đệ nhất [64]? Thế nào là nghe đệ nhất? Thế nào là lạc đệ nhất? Thế nào là tưởng đệ nhất? Thế nào là hữu đệ nhất [65]?”

Tôn giả Bạt-đà-la nói với Tôn giả A-nan:

“Có Phạm thiên, là đầng tự tại, tạo tác, biến hóa như ý, là cha của thế gian. Thấy được Phạm thiên thì gọi đó là cái thấy đệ nhất.

“Này A-nan, có chúng sanh có hỷ lạc do viễn ly sanh thấm nhuần, khắp mọi nơi, mọi nơi đều cảm giác hân hoan toàn [123b] sung mãn, không chỗ nào là không tràn đầy bởi hỷ lạc phát sanh do viễn ly. Chúng sanh này này, sau khi xuất định, xướng lên giữa đại chúng: ‘Vô cùng tịch tĩnh thay, hỷ lạc do viễn ly sanh này! Vô cùng tịch tĩnh thay, hỷ lạc do viễn ly sanh này!’ Nghe được âm thanh này, đó gọi là cái nghe đệ nhất.

“Lại nữa A-nan, nếu có chúng sanh ở nơi thân này có lạc do đã lìa hỷ thấm nhuần, khắp mọi nơi, mọi nơi đều cảm giác hân hoan toàn sung mãn, không chỗ nào là không tràn đầy bởi lạc do đã lìa hỷ này. Đó gọi là lạc đệ nhất.

“Thế nào là tưởng đệ nhất? Này A-nan, có chúng sanh vượt qua tất cả thức xứ, nhập vô sở hữu, thành tựu và an trụ vô sở hữu xứ. Nếu khởi lên tưởng này, gọi là tưởng đệ nhất.

“Thế nào là hữu đệ nhất? Lại nữa A-nan, có chúng sanh vượt qua tất cả vô sở hữu xứ, thành tựu và an trụ phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nếu khởi hữu này, gọi là hữu đệ nhất.”

Tôn giả A-nan nói với Tôn giả Bạt-đà-la:

“Có nhiều người thấy như vậy, nói như vậy. Vậy thì Tôn giả cũng giống họ, đâu có khác gì? Tôi dùng phương tiện hỏi Tôn giả, Tôn giả hãy lắng nghe, tôi sẽ vì Tôn giả mà nói. Theo như cái được quán sát này, mà lần lượt diệt tận các lậu, đó mới gọi là cái thấy đệ nhất. Theo như điều được nghe mà lần lượt diệt tận các lậu, đó mới gọi là cái nghe đệ nhất. Theo như lạc được phát sanh mà lần lượt diệt tận các lậu, đó mới gọi là lạc đệ nhất. Theo như điều được tưởng mà lần lượt diệt tận các lậu, đó mới gọi là tưởng đệ nhất. Như thực quán sát, lần lượt diệt tận các lậu, đó mới gọi là hữu đệ nhất.”

Bấy giờ, hai vị chánh sĩ sau khi bàn luận xong, đứng dậy cáo từ.

KINH 484. ƯU-ĐÀ-DI [66]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà thành Vương-xá. Bấy giờ vua Bình-sa [67] đi đến chỗ Tôn giả Ưu-đà-di, cúi đầu đảnh lễ, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Tôn giả Ưu-đà-di:

“Đức Thế Tôn nói có bao nhiêu thọ?”

Tôn giả Ưu-đà-di đáp:

“Tâu Đại vương, Thế Tôn nói ba thọ: thọ khổ, thọ lạc thọ không khổ không lạc.”

Vua Bình sa bạch Tôn giả Ưu-đà-di:

“Chớ nói như vậy, rằng ‘Thế Tôn nói ba thọ là thọ khổ, thọ lạc, thọ không khổ không lạc.’ Nhưng đúng ra phải nói có hai thọ là thọ khổ, và thọ lạc, còn thọ không khổ không lạc là tịch diệt.”

Nói ba lần như vậy.”

Tôn giả Ưu-đà-di không thể xác lập ba thọ với vua, và vua cũng [124a] không thể xác lập hai thọ. Cả hai cùng đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên. Bấy giờ, Tôn giả Ưu-đà-di bạch lại với Phật những sự việc trên một cách đầy đủ:

“Con cũng không thể xác lập được ba thọ, và vua cũng không thể xác lập được hai thọ; nên nay chúng con cùng đến hỏi Thế Tôn, xin quyết định nghĩa này, là có mấy thọ?”

Phật bảo Tôn giả Ưu-đà-di:

“Ta có khi nói một thọ, có khi nói hai thọ, hoặc có khi nói ba, bốn, năm, sáu, mười tám, ba mươi sáu, cho đến một trăm lẻ tám thọ, hoặc có khi nói vô lượng thọ.

“Ta nói một thọ như thế nào? Như nói, ‘Những gì là thọ đều là khổ.’ Đó gọi là Ta nói có một thọ.

“Ta nói hai thọ như thế nào? Là nói, ‘Thân thọ và tâm thọ.' Đó gọi là có hai thọ.

“Thế nào là ba thọ? Thọ khổ, thọ lạc, thọ không khổ không lạc.

“Thế nào là bốn thọ? Thọ hệ thuộc Dục giới, thọ hệ thuộc Sắc giới, thọ hệ thuộc Vô sắc giới, và thọ không hệ thuộc.

“Thế nào là nói năm thọ? Lạc căn, hỷ căn, khổ căn, ưu căn và xả căn. Đó gọi là năm thọ.

“Thế nào là sáu thọ? Thọ sinh từ nhãn xúc, thọ sinh từ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Đó gọi là sáu thọ.

“Thế nào là mười tám thọ? Thọ, theo sáu hỷ hành, sáu ưu hành, và sáu xả hành. Đó gọi là mười tám thọ.

“Thế nào là ba mươi sáu thọ? Hỷ y sáu tham trước, hỷ y sáu ly tham, ưu y sáu tham trước, ưu y sáu ly tham; xả y sáu tham trước, xả sáu ly tham. Đó gọi là ba mươi sáu thọ.

“Thế nào là một trăm lẻ tám thọ? Ba mươi sáu thọ quá khứ, ba mươi sáu thọ vị lai, và ba mươi sáu thọ hiện tại. Đó gọi là một trăm lẻ tám thọ.

“Thế nào là vô lượng thọ? Như nói thọ này, thọ kia v.v… Này Tỳ-kheo, như vậy gọi là vô lượng thọ.

“Này Ưu-đà-di, Ta bằng nhiều hình thức như vậy nói như thật nghĩa của thọ. Thế gian không hiểu, nên tranh luận và mâu thuẫn chống trái nhau, trọn không nắm được nghĩa chân thật trong pháp luật của Ta, để tự dừng lại.

“Này Ưu-đà-di, nếu đối với nghĩa của nhiều loại thọ mà Ta đã nói đây, hiểu biết như thật, không khởi tranh luận và mâu thuẫn chống trái nhau; với tranh luận đã khởi lên hay chưa khởi lên, có thể bằng pháp luật này mà ngăn ngừa, khiến cho nó đình chỉ.

“Nhưng này Ưu-đà-di, có hai thọ: thọ dục và thọ ly dục. Thế nào là thọ dục? Thọ do nhân duyên năm công đức của dục sinh ra, đó gọi là thọ dục. Thế nào là thọ ly dục? Tỳ-kheo ly [124b] dục và pháp ác bất thiện, có tầm, có tứ, có hỷ lạc phát sanh do viễn ly, thành tưu vàan trụ sơ Thiền, đó gọi là thọ ly dục.

“Nếu có người nói: ‘Chúng sanh nương vào sơ thiền này, chỉ có đây là lạc, ngoài ra không còn gì khác.’ Điều này không đúng. Vì sao? Vì còn có cái lạc thù thắng hơn cái lạc này. Đó là gì? Tỳ-kheo lìa có tầm, lìa có tứ, nội tịnh, có hỷ lạc do định sanh, thành tựu và an trụ nhị thiền, đó gọi là lạc thù thắng. Như vậy, cho đến, phi tưởng phi phi tưởng xứ, càng lên càng thù thắng hơn.

“Nếu có người nói: ‘Chỉ có những xứ này, cho đến, phi tưởng phi phi tưởng là cực lạc, không còn chỗ nào khác.’ Như vậy cũng lại không đúng. Vì sao? Vì còn có cái lạc thù thắng hơn những nơi này nữa. Đó là gì? Tỳ-kheo vượt qua tất cả phi tưởng phi phi tưởng xứ, tưởng thọ diệt, tự thân tác chứng thành tựu, đó là cái lạc thù thắng hơn cái lạc trên.

“Nếu có kẻ xuất gia dị học nói: ‘Sa-môn Thích tử chỉ nói đến tưởng thọ diệt, và cho là đã đến chỗ tận cùng của lạc,’ thì điều này không đúng. Vì sao? Vì đây không phải là danh nghĩa thọ lạc mà Thế Tôn đã nói. Danh nghĩa thọ lạc màThế Tôn nói là, như nói: ‘Này Ưu-đà-di, có bốn thứ lạc. Những gì là bốn? Đó là lạc ly dục, lạc viễn ly, lạc tịch diệt, và lạc Bồ đề.’”

Phật nói kinh này xong, Ưu đa di và vua Bình sa nghe những gì đức Phật đã dạy, vui mừng thực hành theo.

KINH 485. NHẤT PHÁP (1) [68]

Tôi nghe như vầy.

Một thờiPhật trú tại thành Vương xá, trong Can-lan-đà Trúc viên.

Bấy giờ Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Có một pháp làm sanh sự chân chánh yểm ly, không ham muốn, xả bỏ, đạt đến chỗ diệt tận các lậu. Đó là, tất cả chúng sanh đều do thức anh mà tồn tại.

“Lại có hai pháp; đó là danh và sắc.

“Lại có ba pháp; đó là ba thọ.

“Lại có bốn pháp; đó là bốn loại thức ăn.

“Lại có năm pháp; đó là năm thủ uẩn.

“Lại có sáu pháp; đó là sáu nội ngoại xứ.

“Lại có bảy pháp; đó là bảy thức trụ,

“Lại có tám pháp; đó là tám pháp thế gian.

“Lại có chín pháp; đó là chín cư trú của chúng sanh.

“Lại có mười pháp; đó là mười nghiệp đạo.

“Đói với mười pháp này mà sanh yểm ly, không ham muốn, xả bỏ, đạt đến dứt sạch các lậu. ”

Phật nói kinh này xong. Các Tỳ kho sau khi những điều Phật nói, hoan hỷ phụng hành.

KINH 486. NHẤT PHÁP (2) [69]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương-xá. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu đối với một pháp, mà sinh chân chánh nhàm [124c] tởm, không ưa, xả bỏ, sẽ chứng đắc lậu tận. Đó là, tất cả chúng sanh do thức ăn mà tồn tại.

“Lại có hai pháp, đó là danh và sắc. Lại có ba pháp, đó là ba thọ. Lại có bốn pháp, đó là bốn thực. Lại có năm pháp, đó là năm thủ uẩn. Lại có sáu pháp, đó là sáu nội, ngoại xứ. Lại có bảy pháp, đó là bảy thức trụ. Lại có tám pháp, đó là tám pháp thế gian. Lại có chín pháp, đó là chín chỗ cư ngụ của chúng sanh. Lại có mười pháp, đó là mười nghiệp đạo. Đối với mười pháp này, thật sự nhàm tởm, không ưa, xả bỏ, sẽ đến chỗ tận cùng khổ biên, và giải thoát khỏi khổ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 487. NHẤT PHÁP (3) [70]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương-xá. Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu đối với một pháp, mà quán sát vô thường, quán sát biến đổi, quán sát ly dục, quán sát diệt tận, quán sát xả ly, sẽ tận trừ các lậu hoặc. Đó là, tất cả chúng sanh do thức ăn mà tồn tại.

“Lại có hai pháp, đó là danh và sắc. Lại có ba pháp, đó là ba thọ. Lại có bốn pháp, đó là bốn thực. Lại có năm pháp, đó là năm thủ uẩn. Lại có sáu pháp, đó là sáu nội, ngoại xứ. Lại có bảy pháp, đó là bảy thức trụ. Lại có tám pháp, đó là tám pháp thế gian. Lại có chín pháp, đó là chín chỗ cư trú của chúng sanh. Lại có mười pháp, đó là mười nghiệp đạo. Đối với mười pháp này, chơn chánh quán sát vô thường, quán sát biến đổi, quán sát ly dục, quán sát diệt tận, quán sát xả ly, sẽ diệt trừ hết các lậu.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 488. NHẤT PHÁP (4) [71]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật trú trong vườn trúc Ca-lan-đà, thành Vương-xá. Bấy giờ,đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Nếu đối với một pháp, mà quán sát vô thường, quán sát biến đổi, quán sát ly dục, quán sát diệt tận, quán sát xả ly, sẽ đến chỗ tận cùng của khổ biên, và giải thoát khỏi khổ. Đó là,tất cả chúng sanh do thức ăn mà tồn tại.

“Lại có hai pháp, đó là danh và sắc. Lại có ba pháp, đó là ba thọ. Lại có bốn pháp, đó là bốn thực. Lại có năm pháp, đó là năm thủ uẩn. Lại có sáu pháp, đó là lục nội, ngoại xứ. Lại có bảy pháp, đó là bảy thức trụ. Lại có tám pháp, đó là tám pháp thế gian. Lại có chín pháp, đó là chín  [125a] cư trú của chúng sanh. Lại có mười pháp, đó là mười nghiệp đạo. Đối với mười pháp này, chơn chánh quán sát vô thường, quán sát biến đổi, quán sát ly dục, quán sát diệt tận, quán sát xả ly, sẽ đến chỗ tận cùng cũa khổ biên, và giải thoát khỏi khổ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo sau khi nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành. [72]

 


 [1] Ấn Thuận Hội biên, Tụng iii. 6. Tương ưng thọ, gồm các kinh 466-489, nửa sau quyển 17 của Đại chánh hiện hành. Tương đương Pāli, S. 36. Vedanā-saṃyutta.

 [2] Đại chánh, kinh 466. Pāli, S. 36. 10 Phassamūlaka.

 [3] Đại chánh, kinh 467. Gươm đâm. Pāli, S. 36. 5. Daṭṭhabbena.

 [4] S. 36. 3. Pahānena.

 [5] Tham sử , tức tham tùy miên. Pāli: rāgānusayo.

 [6] Sân nhuế sử, hay sân tùy miên. Pāli: paṭighānusayo.

 [7] Si sử, hay si tùy miên. Pāli: avjjānusayo, vô minh tùy miên.

 [8] Mạn vô gián 慢無間; Pāli: mānābhisamaya, hiện quán mạn, hiểu rõ mạn, làm đình chỉ, tiêu vong mạn.

 [9] Pāli: saṃpajaññaṃ na riñcati, không bỏ chánh trí. Pāli: riñcati, rời, chối bỏ, phủ nhận; bản Hán đọc là iñjati: dao động.

 [10] Hán: bất đọa ư chúng số 不墮於眾數. Pāli: kāyassa bhedā dhamaṭṭho saṃkhyaṃ nopeti vedagū ti, bậc Pháp trụ, vị hiền trí, khi thân hoại, không thể mô tả.

 [11] Đại chánh, kinh 469. Sâu thẳm, hiểm trở, chỉ vực thẳm. S. 36. 4. Pātāla.

 [12] Hán: đại hải thâm hiểm 大海深嶮. Pāli: atthi mahāsamudde pātālo’ti, trong biển cả có vực thẳm.

 [13] Đại chánh, kinh 470. Mũi tên. Pāli, S. 36. 6. Sallattena.

 [14] Vi tham sử sở sử. Pāli: yo sukhāya vedanāya rāgānusayo so anuseti, tiềm phục tham tùy miên đối với cảm thọ lạc.

 [15] Pāli: yo dukkhāya vedanāya paṭighānusayo so anuseti, đối với cảm thọ khổ, sân tùy miên tiềm phục.

 [16] Pāli: so sukhañce vedanaṃ vedayati, saññutto naṃ vedayati; nếu nó cảm giác lạc. nó cảm giác bị cái đó trói buộc.

 [17] Trong nguyên bản: đại văn 大聞; sửa lại là đại gián 大間: cách biệt rất lớn.

 [18] Xem cht. 9, kinh 467.

 [19] Hán: bất đọa số, xem cht. 10 kinh 467.

 [20] Đại chánh, kinh 471. S. 36. 12. Ākāsa.

 [21] Tì-thấp-bà phong 毘濕波風; Pāli không có. Có lẽ Phạn: viśvavāta, gió mạnh.

 [22] Tì-lam-bà phong 鞞嵐婆風; Pāli: verambhavāta, não. Bản Pāli không kể.

 [23] Lạc thực thọ 樂食受. Pāli: sāmisāpi sukhā vedanā, cảm thọ lạc của da thịt, của vị ái nhiễm (sa-āmisa: có thịt; nhực thể, xác thit, vật chất).

 [24] Xem cht. 9 kinh 467.

 [25] Xem cht. 10 kinh 467.

 [26] Đại chánh, kinh 472. S. 36. 14. Āgāraṃ.

 [27] Xem cht. 23, kinh 470.

 [28] Đại chánh, kinh 473. S. 36. 11. Rahogataka (Ẩn dật).

 [29] Độc nhất tĩnh xứ 獨一靜處. Pāli: rahogata, sống ẩn dật, độc cư.

 [30] Đại chánh, kinh 474. S. 36. 15-16. Santakaṃ.

 [31] Tiệm thứ tịch diệt 漸次寂滅. Pāli: anupubbasaṃkhārāṇaṃ nirodho, sự biến mất của các hành theo tuần tự.

 [32] Tiệm thứ chỉ tức 漸次止息. Pāli: anupubbasaṃkharaṇaṃ vūpasamo, lần lượt đình chỉ, an tĩnh.

 [33] Nguyên Hán: chánh thọ 正受, đây hiểu là chứng nhập. Pāli: samāpanna thường được dịch là đạt đến, hay nhập.

 [34] Giác quán 覺觀. Pāli: vitakkavicāra.

 [35] Thiền thứ ba được gọi là “Ly hỷ diệu lạc địa” (thân cảm giác lạc vi diệu do đã loại bỏ hỷ).

 [36] Nguyên Hán: Không nhập xứ.

 [37] Nguyên Hán: Thức nhập xứ.

 [38] Đại chánh, kinh 475. Trí đời trước. Pāli, S. 36. 24. Pubbaññāṇa.

 [39] Đại chánh, kinh 476. S. 36. 23. Bhikkhu.

 [40] Đại chánh, kinh 477. Những câu hỏi của A-nan.

 [41] Đại chánh, kinh 478.

 [42] Đại chánh, kinh 479.

 [43] Nguyên bản: A-nậu-đa-ka- tam-miệu-tam-bồ-đề.

 [44] Đại chánh, kinh 480. S. 36. 26-28. Samaṇa-brāhamaṇa.

 [45] Đại chánh, kinh 481. Pāli, S. 54. 11. Icchānaṅgala.

 [46] Nhất-xa-năng-già-la lâm 壹奢能伽羅林. Pāli: Icchānaṅgalavāna.

 [47]Hán: vật phục du hành duy trừ khất thực勿復遊行唯除乞食. Có sự nhầm lẫn trong đoạn này. Xem kinh Đại chánh 807.  Cf. S. 54. 11: nāmhi kenaci upasaṅkamitabbo, aññatra ekena piṇḍapātanīhārakena, đừng ai đến chỗ Ta, trừ một người mang thức ăn đến.

 [48] Giác, đây chỉ tầm, hay tư duy tầm cầu. Xem cht. tiếp theo.

 [49] Du-già 96 (tr. 851b28): có ba nhân duyên sanh thọ: dục đối với đời vị lai; tầm đói với đời quá khứ; xúc đối với đời hiện tại.

 [50] Từ sơ thiền trở lên, dục đã tịch tĩnh nhưng còn tầm (một chi trong sơ thiền) và xúc thì chưa.

 [51] Từ thiền thứ hai cho đến phi tương phi phi tưởng, dục và tầm đều đã tịch tĩnh, nhưng xúc thì chưa.

 [52] Vượt qua Hữu đanh, tất cả đều tịch tĩnh.

 [53] Du-già ibid.: Hạng chúng sanh trụ nội phát, nhập xuất thế định, nhưng chưa đạt đến cứu cánh do đó khởi lên ước vọng bao giờ chứng đắc; cảm thọ do đó sanh khởi.

 [54] Hạng đã đạt cứu cánh, các duyên đều tịch tĩnh, phát sanh cảm thọ vô thượng của đệ nhất tịch tĩnh.

 [55] Đại chánh, kinh 482. Tham chiếu, Pāli, a. 5, 176. Pīti.

 [56] Nghĩa là, trang nghiêm và chỉnh sửa con đường sanh thiên.

 [57] Nguyên Hán: ỷ tức 猗息.

 [58] Đại chánh, kinh 483. Lạc phi vật chất. Pāli, S. 36. 29. Nirāmisaṃ.

 [59] Thực niệm vô thực niệm 有食念無食念. Pāli: atthi sāmisā pīti atthi nirāmisā pitī, có hỷ do vật dục, có hỷ phi vật dục.

 [60]. S 36. 29: pīti, hỷ.

 [61]. Sắc câu hành. Pāli: rūpappaṭisaṃyutto vimokkho, giải thoát kiên hệ với sắc.

 [62] Đại chánh, kinh 44. Pāli, A. 5. 170. Bhaddaji.

 [63]. Bạt đà la 跋陀羅. Pāli: Bhaddaji.

 [64]. Kiến đệ nhất 見第一. Pāli: dassānaṃ aggaṃ, tối thượng trong những cái được thấy.

 [65]. Hữu đệ nhất 有第一, chỉ cõi trời Hữu đảnh. Pāli: bhavānaṃ aggaṃ, tối thượng trong các hữu.

 [66] Đại chánh, kinh 485. S. 36. 19. Pañcakaṅgo.

 [67]Bình-sa vương 瓶沙王 (Pāli: Bimbisāra); vua nước Ma-kiệt-đà. S. 36. 19: Pañcakaṅgako thapati (Ngũ chi vật chủ), một người thợ mộc.

 [68] Đại chánh, kinh 486.

 [69] Đại chánh, kinh 487.

 [70] Đại chánh, kinh 488.

 [71] Đại chánh, kinh 489.

 [72] Bản hán, hết quyển 17. Cuỗi quyển, có phầnphụ lục, chép kinh Đại chánh 455 bị sót trong quyển 16. Nay đã đưa kinh này trở lịa quyển 16.