3. Tương Ưng kiến, Kinh 135-189

3. TƯƠNG ƯNG KIẾN [1]

KINH 135. SANH TỬ LƯU CHUYỂN [2]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Do có cái gì, do sanh khởi cái gì, do hệ lụy cái gì mà có kiến chấp ngã, khiến cho chúng sanh bị vô minh che lấp, bị ái cột cổ, phải dong ruổi nơi đường dài, luân hồi theo sanh tử, lưu chuyển trong sanh tử, không biết biên tế tối sơ là gì?” [3]

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là con mắt pháp, là sở y của pháp. Lành thay, Thế Tôn! Xin thương xót chúng con mà nói rộng nghĩa này. Sau khi các Tỳ-kheo nghe xong sẽ vâng lời thực hành.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà nói.

“Này các Tỳ-kheo, vì có sắc, sanh khởi sự của sắc, hệ lụy sắc, nơi sắc mà thấy ngã, khiến cho chúng sanh bị vô minh che lấp, bị ái cột cổ, phải dong ruổi nơi đường dài, luân hồi theo sanh tử, lưu chuyển trong sanh tử. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.

“Này các Tỳ-kheo, sắc là thường hay là vô thường?”

Đáp:

“Bạch Thế Tôn, là vô thường.”

Lại hỏi:

“Nếu vô thường, là khổ phải chăng?”

Đáp:

“Bạch Thế Tôn, là khổ.”

“Như vậy này các Tỳ-kheo, nếu vô thường là khổ, thì do có cái khổ này mà sự ấy sanh khởi, hệ lụy, thấy là ngã, khiến cho chúng sanh bị vô minh che lấp, bị ái cột cổ, phải dong ruổi nơi đường dài, luân hồi theo sanh tử, lưu chuyển trong sanh tử. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.

“Cho nên, này các Tỳ-kheo, những gì là sắc, hoặc quá [42a] khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả chúng đều chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau. Đó gọi là chánh tuệ. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.

“Cũng vậy, cái thấy, cái nghe, cái hay, cái biết, cái sở cầu, cái sở đắc, cái được nhớ nghĩ [4]; tất cả đều chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau. Đó gọi là chánh tuệ.

“Nếu có kiến chấp cho rằng có ngã, có thế gian, có đời này, là pháp thường hằng, không biến dịch; tất cả chúng đều chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau. Đó gọi là chánh tuệ.

“Lại nữa, nếu có kiến chấp cho rằng không phải cái này là tôi, không phải cái này là của tôi, không phải là tôi trong tương lai, không phải là của tôi trong tương lai; tất cả chúng cũng đều chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau. Đó gọi là chánh tuệ.

“Đa văn Thánh đệ tử ở nơi sáu kiến xứ [5] này mà quán sát chẳng phải là ngã, chẳng phải ngã sở. Quán sát được như vậy rồi, thì dứt hết mọi sự hồ nghi đối với Phật, dứt hết mọi sự hồ nghi đối với Pháp và đối với Tăng. Đó gọi là, Tỳ-kheo, đa văn Thánh đệ tử không còn trở lại tạo nghiệp thân-miệng-ý để đưa đến ba đường ác; giả sử có buông lung, Thánh đệ tử cũng nhất định hướng đến giác ngộ, bảy lần qua lại Trời-Người, rồi cứu cánh biên tế khổ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 136. HỒ NGHI ĐOẠN [6]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

Nội dung chi tiết như kinh trên. Sai biệt ở chỗ:

“Đa văn Thánh đệ tử ở nơi sáu kiến xứ này mà quán sát chẳng phải là ngã, chẳng phải ngã sở. Quán sát được như vậy rồi, đoạn trừ hồ nghi đối với Khổ, Tập, Diệt, Đạo... cho đến, rồi cứu cánh biên tế khổ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 137. HỒ NGHI ĐOẠN [7]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

Nội dung chi tiết như kinh trên. Sai biệt ở chỗ:

“Đa văn Thánh đệ tử ở nơi sáu kiến xứ này mà quán sát chẳng phải là ngã, chẳng phải ngã sở. Quán sát được như vậy rồi, đoạn trừ hồ nghi đối với Phật, Pháp, Tăng, Khổ, Tập, Diệt, Đạo... cho đến, rồi cứu cánh biên tế khổ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ [42b] phụng hành.

KINH 138. SINH TỬ LƯU CHUYỂN [8]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Do có cái gì, do sanh khởi cái gì, do hệ lụy cái gì mà có kiến chấp ngã, khiến cho chúng sanh bị vô minh che lấp, bị ái cột cổ, phải dong ruổi nơi đường dài, luân hồi theo sanh tử, lưu chuyển trong sanh tử, không biết biên tế tối sơ là gì?” [9]

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là con mắt pháp, là sở y của pháp. Lành thay, Thế Tôn! xin thương xót mà nói rộng nghĩa này. Sau khi các Tỳ-kheo nghe xong sẽ vâng lời thực hành.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ngươi mà nói.

“Này các Tỳ-kheo, vì có sắc, sanh khởi sự của sắc, hệ lụy sắc, nơi sắc mà thấy ngã, khiến cho chúng sanh bị vô minh che lấp, bị ái cột cổ, phải dong ruổi nơi đường dài, luân hồi theo sanh tử, lưu chuyển trong sanh tử. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.

“Này các Tỳ-kheo, sắc là thường hay là vô thường?”

Đáp:

“Bạch Thế Tôn, là vô thường.”

Lại hỏi:

“Nếu vô thường, là khổ phải chăng?”

Đáp:

“Bạch Thế Tôn, là khổ.”

“Như vậy này các Tỳ-kheo, nếu vô thường là khổ, thì do có cái khổ này mà sự ấy sanh khởi, hệ lụy, thấy là ngã, khiến cho chúng sanh bị vô minh che lấp, bị ái cột cổ, phải dong ruổi nơi đường dài, luân hồi theo sanh tử, lưu chuyển trong sanh tử. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.

“Cho nên, này các Tỳ-kheo, những gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả chúng đều chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau. Đó gọi là chánh tuệ. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.

“Cũng vậy, cái thấy, cái nghe, cái hay, cái biết, cái sở cầu, cái sở đắc, cái được nhớ nghĩ [10]; tất cả chúng đều chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau. Đó gọi là chánh tuệ.

“Nếu có kiến chấp cho rằng có ngã, có thế gian, có đời này, là pháp thường hằng, không biến dịch; tất cả chúng đều chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau. Đó gọi là chánh tuệ.

“Lại nữa, nếu có kiến chấp cho rằng không phải cái này là tôi, không phải cái này là của tôi, không phải là tôi trong tương lai, không phải là của tôi trong tương lai; tất cả chúng cũng đều chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau. Đó gọi là chánh tuệ.

“Đa văn Thánh đệ tử ở nơi sáu kiến xứ này mà quán sát chẳng phải là ngã, chẳng phải ngã sở. Quán sát được như vậy rồi, thì dứt hết mọi sự hồ nghi đối với Phật, dứt hết mọi sự hồ nghi đối với Pháp và đối với Tăng. [42c] Đó gọi là Tỳ-kheo không còn trở lại tạo nghiệp thân-miệng-ý để đưa đến ba đường ác; giả sử có buông lung, Thánh đệ tử cũng nhất định hướng đến giác ngộ, bảy lần qua lại Trời-Người, rồi cứu cánh biên tế khổ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

KINH 139 [11]

Kinh tiếp theo, nội dung cũng như vậy, chỉ sai khác ở chỗ: “Dứt hết mọi sự hồ nghi đối với Khổ-Tập-Diệt-Đạo.”

KINH 140 [12]

Kinh thứ ba cũng như vậy, chỉ khác nhau ở chỗ: “Dứt hết mọi sự hồ nghi đối với Phật-Pháp-Tăng, và dứt hết mọi sự hồ nghi đối với Khổ-Tập-Diệt-Đạo.” [13]

KINH 141. ƯU NÃO SANH KHỞI [14]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: 

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì,  do thấy ngã nơi cái gì, mà nếu ưu, bi, khổ, não chưa khởi, khiến cho nó khởi; ưu, bi, khổ, não đã khởi, khiến cho nó càng tăng trưởng rộng lớn thêm?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là con mắt pháp, là sở y của pháp. Cúi Xin Thế Tôn nói rộng ra; các Tỳ-kheo sau khi nghe xong sẽ vâng lời thực hành.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:

“Do có sắc, sanh khởi sắc, hệ lụy, đắm đuối sắc, nơi sắc thấy ngã, cho nên,  ưu, bi, khổ não chưa khởi thì khiến cho khởi; ưu, bi, khổ, não đã khởi, khiến tăng trưởng rộng thêm. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.

“Này các Tỳ-kheo, theo các ngươi nghĩ thế nào? Sắc là thường hay là vô thường?”

Đáp:

“Bạch Thế Tôn, là vô thường.”

Lại hỏi:

“Vô thường có phải là khổ chăng?”

Đáp:

“Bạch Thế Tôn, là khổ.”

“Như vậy, này các Tỳ-kheo, nếu vô thường là khổ, thì cái khổ này đang hiện hữu; vì có khổ này nên sanh khởi sự ấy, hệ lụy, đắm đuối, thấy ngã, cho nên, ưu, bi, khổ, não chưa khởi thì khiến khởi; ưu, bi, khổ, não đã khởi thì khiến cho tăng trưởng rộng lớn thêm. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.

“Cho nên, này các Tỳ-kheo, những gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, [43a] hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả chúng chẳng phải là ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau. Đó gọi là chánh tuệ. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.

“Cũng vậy, cái thấy, cái nghe, cái hay, cái biết, cái sở cầu, cái sở đắc [15], cái được nhớ nghĩ, cái được tùy giác, cái được tùy quán; tất cả đều chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau. Đó gọi là chánh tuệ.

“Nếu có kiến chấp cho rằng có ngã, có thế gian, có đời này, có đời khác, là pháp thường hằng, không biến dịch, thì tất cả đều chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau. Đó gọi là chánh tuệ.

“Lại nữa, nếu có kiến chấp cho rằng không phải cái tôi đời này, không phải của tôi đời này [16], không phải là tôi trong tương lai, không phải là của tôi trong tương lai; tất cả chúng cũng đều chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau. Đó gọi là chánh tuệ.

“Đa văn Thánh đệ tử ở nơi sáu kiến xứ này mà quán sát chẳng phải là ngã, chẳng phải ngã sở. Quán sát như vậy rồi, dứt hết mọi sự hồ nghi đối với Phật, dứt hết mọi sự hồ nghi đối với Pháp và đối với Tăng. Đó gọi là, này Tỳ-kheo, đa văn Thánh đệ tử không còn trở lại tạo nghiệp thân-miệng-ý để đưa đến ba đường ác; giả sử có buông lung, Thánh đệ tử cũng nhất định hướng đến chánh giác [17], bảy lần qua lại Trời-Người, rồi cứu cánh biên tế khổ.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy,  hoan hỷ phụng hành. 

KINH 142 [18]

Kinh tiếp theo cũng như vậy, nhưng có sự sai biệt ở chỗ: Dứt hết mọi sự hồ nghi đối với Khổ-Tập-Diệt-Đạo.

KINH 143 [19]

Kinh tiếp theo cũng như vậy, nhưng lại có sự sai biệt ở chỗ: Dứt hết mọi sự hồ nghi đối với Phật-Pháp-Tăng, và Khổ-Tập-Diệt-Đạo,

KINH 144. NGÃ NGÃ SỞ [20]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì, do thấy ngã nơi cái gì, mà nếu ngã, ngã sở, ngã mạn kết sử [21] chưa khởi, khiến cho nó khởi; mà nếu ngã, ngã sở, ngã mạn kết sử đã khởi, khiến cho càng tăng trưởng rộng lớn thêm?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là con mắt pháp, là sở y của pháp. Cúi Xin Thế Tôn nói rộng ra; các Tỳ-kheo sau khi nghe xong sẽ hoan hỷ vâng lời thực hành.” (...) chi tiết như kinh trên, cho đến:

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy,  hoan hỷ phụng hành. 

KINH 145

KINH 146 [22]

Hai kinh này dạy cũng như kinh trên.

KINH 147. HỮU LẬU CHƯỚNG NGẠi [23]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Do có cái gì, do khởi cái gì, [43b] do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì,  do thấy ngã nơi cái gì, mà nếu hữu lậu, chướng ngại, thiêu đốt, ưu, bi, khổ, não chưa khởi thì sanh khởi; hữu lậu, chướng ngại, thiêu đốt, ưu, bi, khổ, não, đã sanh khởi thì khiến cho càng tăng trưởng rộng lớn thêm?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là con mắt pháp, là sở y của pháp. (...).”

chi tiết thứ tự như 3 kinh trên.

KINH 148. TAM THỌ [24]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì,  do thấy ngã nơi cái gì, mà khiến cho ba thọ chuyển hiện ở thế gian?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là con mắt pháp, là sở y của pháp. (...).”

chi tiết thứ tự như 3 kinh trên.

KINH 149. TAM KHỔ [25]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì, do thấy ngã nơi cái gì, mà khiến cho ba khổ chuyển hiện ở thế gian?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là con mắt pháp, là sở y của pháp. (...).”

chi tiết thứ tự như 3 kinh trên.

KINH 150. THẾ BÁT PHÁP [26]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì, do thấy ngã nơi cái gì, mà khiến cho tám thế pháp [27] chuyển hiện ở thế gian?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là con mắt pháp, là sở y của pháp. (...).”

chi tiết thứ tự như 3 kinh trên.

KINH 151. NGÃ THẮNg [28]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:   

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì,  do thấy ngã nơi cái gì, khiến cho chúng sanh thấy như vầy, nói như vầy: ‘Ta hơn, ta bằng, ta kém?’” [29]

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là mắt pháp, là nơi nương tựa của pháp (…).”

chi tiết như kinh trên, theo thứ tự như ba kinh trên.

KINH 152. THA THẮNg [30]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:   

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì,  do thấy ngã nơi cái gì, khiến cho chúng sanh thấy như vầy, nói như vầy:  ‘Có người hơn ta, có người bằng ta, có người thua ta?’”

 [43c] Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là con mắt pháp, là nơi sở y của pháp. (...)”

chi tiết như trên. Theo thứ tự, như ba kinh trên.

KINH 153. VÔ THẮNG [31]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:   

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì,  do thấy ngã nơi cái gì, khiến cho chúng sanh thấy như vầy, nói như vầy:  ‘Không có người hơn ta, không có người ngang ta, không có người thua ta?’”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là mắt pháp, là nơi nương tựa của pháp.(…)” Chi tiết như kinh trên. Theo thứ tự như ba kinh trên.

KINH 154. HỮU NGÃ [32]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:   

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì,  do thấy ngã nơi cái gì, khiến cho chúng sanh thấy như vầy, nói như vầy: ‘Có ta, có đời này, có đời khác, là pháp thường hằng không biến đổi, an trụ như vậy?’” [33]

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là mắt pháp, là nơi nương tựa của pháp. (…)” Chi tiết như kinh trên. Theo thứ tự như ba kinh trên.

KINH 155. BẤT NHỊ [34]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:   

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì, do thấy ngã nơi cái gì, khiến cho chúng sanh thấy như vầy, nói như vầy: ‘Như vậy, ta và cái kia [35], tất cả không phải hai, không phải khác, bất diệt?’”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là mắt pháp, là sở y của pháp. (…)”

Chi tiết như kinh trên. Theo thứ tự như ba kinh trên.

KINH 156. VÔ QUẢ [36]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:   

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì, do thấy ngã nơi cái gì, khiến cho chúng sanh thấy như vầy, nói như vầy: ‘Không có bố thí [37], không hội tế [38], không có chú thuyết [39], không có nghiệp báo đường lành, đường ác, không có đời này, không có đời khác, không có cha mẹ, không có chúng sanh, không có thế gian, trong thế gian không có A-la-hán, không có bậc chánh hành, chánh hướng [40] để đời này hay đời sau, thấy pháp an trụ đầy đủ với tự tri, tự tác chứng rằng: ‘Ta, sự sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa? [41]

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là mắt pháp, là sở y của pháp.(…)”

Chi tiết như kinh trên. Theo thứ tự như ba kinh trên.

KINH 157. VÔ LỰC [42]

 [44a] Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:   

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì, do thấy ngã nơi cái gì, khiến cho chúng sanh thấy như vầy, nói như vầy: ‘Không có lực, không có tinh tấn, không có lực tinh tấn, không có phương tiện của con người, không có tinh cần của con người, không có phương tiện tinh cần của con người, không có tự mình làm, không có người khác làm, không có tự mình và người khác làm; hết thảy con người, hết thảy chúng sanh, hết thảy thần, đều vô phương tiện, bất lực, vô thế, vô tinh tấn, không khả năng, định phận, tương tục, chuyển biến, chịu khổ vui trong sáu đường?’” [43]

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là mắt pháp, là sở y của pháp. (…)”

Chi tiết như kinh trên. Theo thứ tự như ba kinh trên.

KINH 158. TỬ HẬU ĐOẠN HOẠI [44]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:   

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì,  do thấy ngã nơi cái gì, khiến cho chúng sanh thấy như vầy, nói như vầy [45]:  ‘Những chúng sanh sống trong đời này, sau khi chết đoạn hoại không còn gì. Con người do bốn đại hòa hợp, sau khi thân họai mạng chung, đất trở về đất, nước trở về nước, lửa trở về lửa, gió trở về gió, thành người thứ năm nằm trên cáng, còn bốn người kia khiêng thây người chết đưa đến bãi tha ma, cho đến khi chưa thiêu đốt thì có thể nhận biết, nhưng khi đã thiêu đốt rồi thì xương cốt trắng tinh như màu chim bồ câu. Người kiêu mạn biết bố thí, người có một chút trí tuệ biết nhận lãnh: ai nói có sự việc ấy thì tất cả những gì họ nói ra đó chỉ là những lời nói dối không thật [46]; hoặc dù ngu hay trí mà sau khi chết qua đời khác, tất cả đều đoạn hoại không còn gì?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là mắt pháp, là sở y của pháp. (…)”

Chi tiết như kinh trên. Theo thứ tự như ba kinh trên.

KINH 159. VÔ NHÂN VÔ DUYÊN [47]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:    

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì, do thấy ngã nơi cái gì, khiến cho chúng sanh thấy như vầy, nói như vầy: ‘Chúng sanh phiền não, không do nhân gì, không do duyên gì’ [48]?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là mắt pháp, là sở y của pháp. (…)”

Chi tiết như kinh trên. Theo thứ tự như ba kinh trên.

KINH 16O. VÔ NHÂN VÔ DUYÊN [49]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:   

“Do có cái gì, do khởi cái gì, [44b] do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì, do thấy ngã nơi cái gì, khiến cho chúng sanh thấy như vầy, nói như vầy: ‘Chúng sanh thanh tịnh, không do nhân gì, không do duyên gì’ [50]?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là mắt pháp, là sở y của pháp. (…)”

Chi tiết như kinh trên. Theo thứ tự như ba kinh trên.

KINH 161. VÔ NHÂN VÔ DUYÊN [51]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:   

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì, do thấy ngã nơi cái gì, khiến cho chúng sanh thấy như vầy, nói như vầy: ‘Chúng sanh không tri không kiến, không do nhân gì, không do duyên gì’?” [52]

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là mắt pháp, là sở y của pháp. (…)”

Chi tiết như kinh trên. Theo thứ tự ba kinh trên.

KINH 162. VÔ NHÂN VÔ DUYÊN [53]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:   

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì, do thấy ngã nơi cái gì, khiến cho chúng sanh thấy như vầy, nói như vầy: (?)” [54]

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là mắt pháp, là sở y của pháp. (…)”

Chi tiết như kinh trên. Theo thứ tự như ba kinh trên.

KINH 163. THẤT THÂN [55]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:   

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì, do thấy ngã nơi cái gì, khiến cho chúng sanh thấy như vầy, nói như vầy: ‘Có bảy thân, chẳng phải tạo tác, chẳng phải là được tạo tác;  chẳng phải biến hóa, chẳng phải là được biến hóa, là chắc thật, không dao động, không bị giết. Những gì là bảy? Đó là: thân đất, thân nước, thân lửa, thân gió, khổ, lạc, mạng. Bảy loại thân này chẳng phải tạo tác, chẳng phải là được tạo tác; chẳng phải biến hóa, chẳng phải là được biến hóa, là chắc thật, không dao động, không bị giết, không chuyển, không biến, không bức bách nhau; hoặc phước, hoặc ác, hoặc phước ác; hoặc khổ, hoặc vui, hoặc khổ vui; hoặc người bị bêu đầu, hoặc người chém đầu, cũng không bức bách thế gian; hoặc mạng, hoặc thân, trong khoảng bảy thân, chịu đựng dao đâm qua lại cũng không hại mạng; ở đây không bị giết, không người giết; không bị trói buộc, không người trói buộc; không nhớ nghĩ, không người nhớ nghĩ ; không dạy dỗ, không người dạy dỗ?” [56]

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là mắt pháp, là sở y của pháp. (…)”

Chi tiết như kinh trên. Theo thứ tự như ba kinh trên.

KINH 164. TÁC GIÁO [57]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. [44c] Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:    

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì, do thấy ngã nơi cái gì, khiến cho chúng sanh thấy như vầy, nói như vầy: ‘Làm, sai bảo làm, đoạn mạng, sai bảo đoạn mạng, nấu, sai bảo nấu; giết, sai bảo giết, sát hại chúng sanh; trộm của người; hành tà dâm; biết mà nói dối; uống rượu; khoét tường, bẻ khóa, cướp đoạt; đón đường, phá làng xóm, hại thành ấp, dùng kiếm cực bén chém, chặt, cắt chất thành đống thịt lớn; học tập như vậy, làm như vậy, chẳng phải là nhân duyên ác, cũng chẳng phải chiêu vời quả báo ác. Đi về phía Nam sông Hằng, sát hại. Đi đến phía Bắc sông Hằng việc mở đại hội cúng tế; làm như vậy, chẳng phải là nhân duyên phước hay là ác, và cũng chẳng phải là chiêu vời quả báo phước hay là ác; bố thí, tự chế ngự, hộ trì, hành lợi, đồng lợi, những việc làm ở đây cũng chẳng phải là làm phước’?” [58]

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là mắt pháp, là sở y của pháp. (…)”

Chi tiết như kinh trên. Theo thứ tự như ba kinh trên.

KINH 165. SANH TỬ ĐỊNH LƯỢNG [59]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:   

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì, do thấy ngã nơi cái gì, khiến cho chúng sanh thấy như vầy, nói như vầy: ‘Ở đây có mười bốn trăm ngàn cửa sanh [60], sáu mươi ngàn, sáu trăm; [61] có năm nghiệp [62], ba nghiệp, hai nghiệp, một nghiệp, nửa nghiệp; sáu mươi hai đạo tích [63], sáu mươi hai trung kiếp [64], một trăm hai mươi nê-lê [65], một trăm ba mươi căn [66], ba mươi sáu trần giới [67], bốn mươi chín ngàn loại rồng, bốn mươi chín ngàn loại kim sí điểu, bốn mươi chín ngàn loại ngoại đạo tà mạng, bốn mươi chín ngàn loại ngoại đạo xuất gia, [68] bảy kiếp tưởng, bảy kiếp vô tưởng [69], bảy A-tu-la, bảy Tì-xá-giá, [70] bảy trời, bảy người, bảy trăm biển [71], bảy giấc mộng, bảy trăm giấc mộng, bảy vực thẳm, bảy trăm vực thẳm, bảy giác, bảy trăm giác, [72] sáu sanh [73], mười tăng tiến, [74] tám đại sĩ địa. [75] Ở trong tám vạn bốn ngàn đại kiếp này, hoặc ngu si, hoặc trí tuệ, qua lại từng trải, rồi mới cùng tận khổ biên [76]. Ở đó không có Sa-môn, Bà-la-môn có thể nói như vầy: ‘Tôi luôn luôn giữ giới, nhận các khổ hạnh, tu các phạm hạnh; để nghiệp chưa chín mùi khiến được chín mùi, nghiệp đã chín mùi rồi thì buông bỏ.’ Tiến thối, không thể biết. Ở đây, khổ và lạc là thường trụ, sống và chết có giới hạn nhất định. Giống như ống chỉ, ném vào giữa hư không từ từ rơi xuống dần, cho tới đất rồi dừng lại; việc sống chết có giới hạn nhất định, trong tám vạn bốn ngàn đại kiếp cũng như vậy.’” [77]

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là mắt pháp, là sở y của pháp. (…)”.

Chi tiết như kinh trên. [45a] Theo thứ tự như ba kinh trên.

KINH 166. PHONG [78]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:   

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì, do thấy ngã nơi cái gì, khiến cho chúng sanh thấy như vầy, nói như vầy: ‘Gió không thổi, lửa không cháy, nước không chảy, tên không bắn, mang thai không sanh, sữa không vắt, mặt trời mặt trăng mọc mà như lặn [79], hoặc sáng hoặc tối, không thể biết’?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là mắt pháp, là sở y của pháp. (...)”

Chi tiết như kinh trên. Theo thứ tự như ba kinh trên.

KINH 167. ĐẠI PHẠM [80]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:   

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì, do thấy ngã nơi cái gì, khiến cho chúng sanh thấy như vầy, nói như vầy: ‘Đại Phạm này là đấng tự  tại, được sáng tạo, là cha của chúng sanh?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là mắt pháp, là sở y của pháp. (...)”

Chi tiết như kinh trên. Theo thứ tự như ba kinh trên.

KINH 168. SẮC THỊ NGÃ [81]

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:   

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì, do thấy ngã nơi cái gì, khiến cho chúng sanh thấy như vầy, nói như vầy: ‘Sắc là ngã [82], ngoài ra chỉ là hư danh; phi sắc là ngã, [83] ngoài ra chỉ là hư danh; sắc phi sắc là ngã, ngoài ra chỉ là hư danh; phi sắc phi phi sắc là ngã, ngoài ra chỉ là hư danh; ngã là hữu biên, [84] ngoài ra chỉ là hư danh; ngã là vô biên, ngoài ra chỉ là hư danh; ngã là hữu biên và vô biên, ngoài ra chỉ là hư danh; ngã chẳng phải là hữu biên và chẳng phải là vô biên, ngoài ra chỉ là hư danh; một tưởng, đa dạng thứ tưởng, nhiều tưởng, vô lượng tưởng; ngã chỉ một mực là lạc, [85] chỉ một mực là khổ, hoặc vừa khổ vừa lạc, không khổ-không lạc ngoài ra chỉ là hư danh’?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là mắt pháp, là sở y của pháp. (...)”

Chi tiết như kinh trên. Theo thứ tự như ba kinh trên.

KINH 169. SẮC THỊ NGÃ [86]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì, do thấy ngã nơi cái gì, khiến cho chúng sanh thấy như vầy, nói như vầy: ‘Sắc là ngã [87], ngoài ra chỉ là vọng tưởng; phi sắc phi phi sắc là [45b] ngã, ngoài ra chỉ là vọng tưởng; ngã là hữu biên, ngoài ra chỉ là vọng tưởng; ngã là vô biên, ngoài ra chỉ là vọng tưởng; ngã chẳng phải là hữu biên và chẳng phải là vô biên, ngoài ra chỉ là vọng tưởng; một tưởng, đa dạng thứ tưởng, nhiều tưởng, vô lượng tưởng; ngã chỉ một mực là lạc, chỉ một mực là khổ, hoặc vừa khổ vừa lạc, không khổ-không lạc ngoài ra chỉ là hư danh’?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là mắt pháp, là sở y của pháp. (...)”

Chi tiết như kinh trên. Theo thứ tự như ba kinh trên.

KINH 170. THẾ GIAN THƯỜNG [88]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:   

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì, do thấy ngã nơi cái gì, khiến cho chúng sanh thấy như vầy, nói như vầy: ‘Thế gian là thường; thế gian là vô thường; thế gian là thường-vô thường; thế gian là chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. [89] Thế gian là hữu biên, thế gian là vô biên; thế gian là hữu biên-vô biên; thế gian là chẳng phải hữu biên, chẳng phải vô biên. [90] Mạng tức là thân, mạng khác thân khác. [91] Sau khi Như lai mất là có, sau khi Như lai mất là không; sau khi Như lai mất là vừa có vừa không; sau khi Như lai mất là vừa chẳng phải có vừa chẳng phải chăng [92]’?”

các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là mắt pháp, là sở y của pháp. (…)”

Chi tiết như kinh trên. Theo thứ tự như ba kinh trên.

KINH 171. THẾ GIAN NGÃ THƯỜNg [93]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:   

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì, do thấy ngã nơi cái gì, khiến cho chúng sanh thấy như vầy, nói như vầy: ‘Thế gian, ngã là thường; thế gian, ngã là vô thường; thế gian, ngã là thường-vô thường; thế gian, ngã là chẳng phải thường chẳng phải vô thường; ngã khổ là thường; ngã khổ là vô thường; ngã khổ là thường-vô thường; ngã khổ là chẳng phải thường chẳng phải vô thường; thế gian, ngã là tự tạo; thế gian, ngã là cái khác tạo; thế gian, ngã là tự tạo cái khác tạo; thế gian, ngã chẳng phải là tự tạo, chẳng phải là cái khác tạo, chẳng phải tự cũng chẳng phải cái khác, không nhân tạo tác; thế gian, ngã khổ là tự tạo; thế gian, ngã khổ là cái khác tạo; thế gian, ngã khổ vừa tự vừa cái khác tạo; thế gian, ngã khổ chẳng phải tự cũng chẳng phải cái khác, không nhân tạo tác’?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là mắt pháp, là sở y của pháp (…)”

Chi tiết như kinh trên. Theo thứ tự như ba kinh trên.

KINH 172. NGỘ LẠC NIẾT-BÀn [94]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:   

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì, do thấy ngã nơi cái gì, khiến cho chúng sanh thấy như vầy, nói như vầy: ‘Nếu không có ngũ dục khoái lạc, thì sẽ Bát Niết-bàn ngay trong hiện thực này. [45c] Nếu ly dục, lìa pháp ác bất thiện, có tầm, có tứ, có lạc phát sanh do ly dục, nhập vào Sơ thiền, cho đến, Tứ thiền. Đó là đệ nhất nghĩa Bát Niết-bàn’?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là mắt pháp, là sở y của pháp (…)”

Chi tiết như kinh trên. Theo thứ tự như ba kinh trên.

KINH 173. NGÃ CHÁNH ĐOẠN [95]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:   

“Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm đuối cái gì, do thấy ngã nơi cái gì, khiến cho chúng sanh thấy như vầy, nói như vầy: ‘Nếu bốn đại sắc thô đoạn hoại, không còn gì, đó gọi là ngã bị đoạn diệt thật sự. Nếu ngã của cõi Dục đoạn hoại, sau khi chết sẽ không còn gì nữa, đó gọi là ngã bị đoạn diệt thật sự. Nếu ngã của cõi Sắc, sau khi chết không còn gì nữa, đó gọi là ngã bị đoạn diệt thật sự. Nếu đạt được không vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ, sau khi chết ngã bị đoạn hoại không còn gì nữa, đó gọi là ngã bị đoạn hoại thật sự?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Thế Tôn là gốc pháp, là mắt pháp, là sở y của pháp (…)”

Chi tiết như kinh trên. Theo thứ tự như ba kinh trên.

KINH 174. ĐƯƠNG ĐOẠN [96]

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:   

“Nếu pháp là vô thường, thì nên đoạn trừ. Sau khi đoạn trừ được pháp này rồi, các ngươi sẽ được nhiều lợi ích, được an lạc lâu dài. Pháp gì là vô thường? Sắc là vô thường; thọ, tưởng, hành, thức là vô thường.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy,  hoan hỷ phụng hành. 

KINH 175. QUÁ KHỨ ĐƯƠNG ĐOẠN [97]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Nếu pháp quá khứ là vô thường, thì nên đoạn trừ. Sau khi đoạn trừ pháp này rồi, các ngươi sẽ được nhiều lợi ích, được an lạc lâu dài. Pháp quá khứ gì là vô thường? Sắc quá khứ là pháp vô thường, dục quá khứ là pháp vô thường. Những pháp này cần phải đoạn trừ. Sau khi đoạn trừ  pháp này rồi, các ngươi sẽ được nhiều lợi ích, được an lạc lâu dài. Thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy,  hoan hỷ phụng hành.

Cũng vậy, các kinh: Vị lai, hiện tại, quá khứ; hiện tại-vị lai; hiện tại-quá khứ; vị lai-quá khứ; vị lai-hiện tại;  chi tiết như kinh trên.

KINH 176. CẦU ĐẠI SƯ [98]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ.

 [46a] Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:              

“Vì muốn đoạn trừ pháp vô thường, nên phải cầu Đại sư. Pháp gì là vô thường? Sắc là pháp vô thường. Vì muốn đoạn trừ pháp này nên phải cầu Đại sư. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy,  hoan hỷ phụng hành.

Cũng vậy, tám kinh sau đây:

Quá khứ,  Vị lai, Hiện tại, Hiện tại-vị lai; Hiện tại-quá khứ; Vị lai-quá khứ; Vị lai-hiện tại; Nên cầu Đại sư như thế.

Các kinh sau đây, mỗi kinh thêm các chi tiết như tám kinh trên:

Chủng chủng giáo tùy thuận, An, Quảng an, Châu phổ an, Đạo, Quảng đạo, Cứu cánh đạo, Thuyết, Quảng thuyết, Tùy thuận thuyết, Đệ nhị bạn, Chân tri thức, Đồng ý, Mẫn, Bi, Sùng nghĩa, Sùng an ổn, Dục, Tinh tấn, Phương tiện, Quảng phương tiện, Kham năng phương tiện, Kiên cố, Cường kiện, dũng mãnh thân tâm, Dũng mãnh nan phục, Nhiếp thọ thường học, Bất phóng dật tu, Tư duy, Niệm, Giác, Tri, Minh, Tuệ, Biện, Tư lương, Phạm hạnh, Như ý, Chánh cần, Căn, Lực, Giác, Đạo, Chỉ, Quán, niệm thân, Chánh ức niệm.

Như kinh “Đoạn nghĩa” các kinh sau đây cũng có nội dung như vậy:

Tận nghĩa, Thổ nghĩa, Chỉ nghĩa, Xả nghĩa.

KINH 177. CỨU ĐẦU NHIÊU THÍ [99]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: 

“Như có người bị lửa đốt đầu và áo, phải làm sao để cứu?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, phải gấp rút, nhanh chóng, nổ lực tìm cách để dập tắt nó.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:     

“Đầu và áo bị đốt cháy còn có thể tạm quên đi được, còn lửa vô thường mà hừng hực thì cần phải đoạn trừ tận diệt. Vì muốn đoạn trừ lửa vô thường, nên cần cầu bậc Đại sư. Vì muốn đoạn trừ những pháp vô thường nào nên cần cầu bậc Đại sư? Vì muốn đoạn trừ sắc vô thường, nên cần cầu bậc Đại sư. Vì muốn đoạn trừ thọ, tưởng, hành, thức vô thường, nên cần cầu bậc Đại sư.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy,  hoan hỷ phụng hành. 

Như kinh “Đoạn trừ vô thường,” cũng vậy, các kinh sau đây tượng tợ:

Quá khứ vô thường, Vị lai vô thường, Hiện tại vô thường; Quá khứ, vị lai vô thường; Quá khứ hiện tại vô thường; Vị lai, hiện tại vô thường; Quá khứ, vị lai, hiện tại vô thường như vậy.

Như tám kinh  thí dụ cứu lửa trên đầu đã nói chi tiết như trên.

Cũng như “cầu bậc Đại sư”, các kinh “chủng chủng giáo,” “tùy thuận giáo,” chi tiết như trên đã nói. [100]

Cũng ý nghĩa như “đoạn”, các kinh có nghĩa “tận, [46b] thổ, chỉ, xả, diệt, một” cũng chi tiết như vậy.

KINH 178. THÂN QUÁN TRỤ [101]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: 

“Vì để đoạn trừ vô thường, hãy tùy thuận tu tập với sự quán trụ thân trên nội thân. [102] Pháp gì là vô thường? Sắc là vô thường. Vì để đoạn trừ sắc ấy, hãy tùy thuận tu tập với sự quán trụ thân trên nội thân. Cũng vậy, thọ tưởng, hành, thức là vô thường. Vì muốn đoạn trừ chúng, hãy tùy thuận tu tập với sự quán trụ thân trên nội thân.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy,  hoan hỷ phụng hành. 

Cũng như kinh “vô thường,” cũng vậy, với nội dung tương tự:

Sắc quá khứ là vô thường; Sắc vị lai, Sắc hiện tại; Sắc quá khứ, vị lai; Sắc quá khứ, hiện tại; Sắc vị lai, hiện tại;

Sắc quá khứ, vị lai, hiện tại là vô thường; vì muốn đoạn trừ chúng, nên tùy thuận tu quán trụ nội thân trên thân. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.

Cũng như “tùy thuận tu tập với sự quán trụ thân trên nội thân,” có các kinh với nội dung tương tự:

Quán thân trên ngoại thân, Quán thân trên nội ngoại thân; Quán thọ trên nội thọ, Quán thọ trên ngoại thọ, Quán thọ trên nội ngoại thọ; Quán tâm trên nội tâm, Quán tâm trên ngoại tâm, Quán tâm trên nội ngoại tâm; Quán pháp trên nội pháp, Quán pháp trên ngoại pháp, Quán pháp trên nội ngoại pháp.

Cũng như kinh với nghĩa “đoạn trừ vô thường, hãy tu bốn niệm xứ.” Cũng vậy các kinh với nghĩa: hiểu biết, nghĩa dứt trừ, nghĩa nhàm chán, nghĩa dừng nghỉ, nghĩa buông xả, nghĩa diệt tận, nghĩa bặt hết, nên tùy thuận tu Tứ niệm xứ cũng dạy như trên.

KINH 179 THÂN QUÁN TRỤ [103]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ kheo:

“Như có người bị lửa đốt đầu và áo, phải làm sao để cứu?”

Các Tỳ kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, phải gấp rút, nhanh chóng, nổ lực tìm cách để dập tắt nó.”

Phật bảo các Tỳ kheo:

“Đầu và áo bị đốt cháy còn có thể tạm quên đi được, còn lửa vô thường mà hừng hực thì cần phải đoạn trừ tận diệt. Vì để đoạn trừ lửa vô thường, nên tùy thuận tu tập an trụ quán thân trên nội thân. Lửa vô thường gì cần đoạn trừ mà tùy thuận tu tập an trụ quán thân trên nội thân? Sắc là vô thường. Vì muốn đoạn trừ nó, nên phải tùy thuận tu quán trụ thân trên nội thân. Thọ, tưởng, hành, thức là vô thường. Vì muốn đoạn trừ chúng, nên tùy thuận tu quán trụ thân trên nội thân.” Chi tiết như trên,... cho đến:

Phật nói kinh này xong, các Tỳ kheo nghe những gì đức Phật đã dạy,  hoan hỷ phụng hành. [46b]

Như vô thường, như quá khứ là vô thường, vị lai là vô thường, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai là vô thường; quá khứ, hiện tại là vô thường; vị lai, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai, hiện tại là vô thường như vậy. Như tám kinh quán trụ thân trên nội thân, tám kinh quán thân trên ngoại thân, tám kinh quán thân trên nội ngoại thân như đã dạy ở trên.

Như hai mươi bốn kinh nói về thân niệm xứ, hai mươi bốn kinh nói về thọ niệm xứ, tâm niệm xứ, pháp niệm xứ cũng dạy như trên như vậy. Như chín mươi hai kinh nói về đoạn trừ vô thường, chín mươi kinh nói về nên hiểu biết, nên nhàm chán, nên dứt trừ, nên dừng nghỉ, nên buông xả, nên diệt tận, nên bặt dứt cũng dạy như trên vậy.

KINH 180. ĐOẠN ÁC BẤT THIỆN PHÁP [104]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: 

“Như có người bị lửa đốt đầu và áo, phải làm sao để cứu?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, phải gấp rút, nhanh chóng, nổ lực tìm cách để dập tắt nó.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:  

“Đầu và áo bị đốt cháy còn có thể tạm quên đi được, còn lửa vô thường mà hừng hực thì cần phải đoạn trừ tận diệt. Vì để đoạn trừ lửa vô thường, nên pháp ác bất thiện đã sanh thì hãy đoạn trừ, khởi ý dục, tinh cần, nhiếp tâm khiến cho tăng trưởng. Vì để đoạn trừ những pháp vô thường nào mà đối với pháp ác bất thiện đã sanh thì hãy đoạn trừ, khởi ý dục, tinh cần, nhiếp tâm khiến cho tăng trưởng? Vì để đoạn trừ sắc vô thường, đoạn trừ thọ, tưởng, hành, thức vô thường nên đối với pháp ác bất thiện đã sanh thì hãy đoạn trừ, khởi ý dục, tinh cần, nhiếp tâm khiến cho tăng trưởng.” Chi tiết như kinh trên,”... cho đến:

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy,  hoan hỷ phụng hành. 

Như kinh vô thường, quá khứ là vô thường; vị lai là vô thường; hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai là vô thường; quá khứ, hiện tại là vô thường; vị lại, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai, hiện tại là vô thường, tám kinh cũng nói như trên như vậy.

Như pháp ác bất thiện đã sanh ra, sẽ được đoạn trừ, pháp ác bất thiện chưa sanh sẽ khiến không sanh; pháp thiện chưa sanh sẽ khiến sanh ra, và nếu đã sanh rồi, sẽ khiến tăng trưởng rộng, nếu khởi lên ý muốn tìm cách nhiếp tâm làm tăng trưởng ở trong tám kinh cũng nói như trên như vậy.

Như ba mươi hai kinh nói về đoạn trừ vô thường, ba mươi hai kinh nói về nên hiểu biết, nên nhàm chán, nên dứt trừ, nên dừng nghỉ, nên buông xả, nên diệt tận, nên bặt dứt cũng nói đầy đủ như [47a] trên như vậy.

KINH 181. DỤC ĐỊNH [105]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Như có người bị lửa đốt đầu và áo, phải làm sao để cứu?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, phải gấp rút, nhanh chóng, nổ lực tìm cách để dập tắt nó.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:     

“Đầu và áo bị đốt cháy còn có thể tạm quên đi được, còn lửa vô thường mà hừng hực thì cần phải đoạn trừ tận diệt. Vì để đoạn trừ lửa vô thường, nên tu dục định đoạn hành thành tựu như ý túc [106]. Vậy nên đoạn trừ những pháp vô thường nào? Để đoạn trừ sắc vô thường; đoạn trừ thọ, tưởng, hành, thức vô thường; cho nên tu dục định đoạn hành thành tựu như ý túc.

Chi tiết như kinh đã nói,... cho đến:

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy,  hoan hỷ phụng hành. 

Như vô thường, quá khứ là vô thường, vị lai là vô thường, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai là vô thường; quá khứ, hiện tại là vô thường; vị lai, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai, hiện tại là vô thường, tám kinh cũng nói như trên như vậy.

Như kinh tu dục định, ba mươi hai kinh nói về tinh tấn định, ý định, tư duy định cũng như vậy. Như ba mươi hai kinh nói về nên đoạn trừ, ba mươi hai kinh nói về nên hiểu biết, nên nhàm chán, nên dứt trừ, nên dừng nghỉ, nên buông xả, nên diệt tân, nên dứt bặt cũng dạy như trên như vậy.

KINH 182. TÍN CĂN [107]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Như có người bị lửa đốt đầu và áo, phải làm sao để cứu?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, phải gấp rút, nhanh chóng, nổ lực tìm cách để dập tắt nó.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:     

“Đầu và áo bị đốt cháy còn có thể tạm quên đi được, còn lửa vô thường mà hừng hực thì cần phải đọan trừ tận diệt. Vì muốn đoạn trừ lửa vô thường, nên tu tín căn. Vậy nên đoạn trừ những pháp vô thường nào? Đoạn trừ sắc vô thường, đoạn trừ thọ, tưởng, hành, thức vô thường, nên tu tín căn.” Nói chi tiết như vậy,... cho đến:

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy,  hoan hỷ phụng hành. 

Như kinh nói về vô thường, quá khứ là vô thường, vị lai là vô thường, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai là vô thường; quá khứ, hiện tại là vô thường; vị lai, hiện [47b] tại là vô thường; quá khứ, vị lai, hiện tại là vô thường cũng dạy như trên.

Như tám kinh nói về tín căn, tám kinh nói về tu tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn cũng dạy như trên như vậy.

Như bốn mươi kinh nói về nên đoạn trừ, bốn mươi kinh nói về nên hiểu biết, nên nhàm chán, nên dứt trừ, nên dừng nghỉ, nên buông xả, nên diệt tận, nên dứt bặt cũng dạy như trên như vậy.

KINH 183. TÍN LỰC [108]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: 

“Như có người bị lửa đốt đầu và áo, phải làm sao để cứu?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, phải gấp rút, nhanh chóng, nổ lực tìm cách để dập tắt nó.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:     

“Đầu và áo bị đốt cháy còn có thể tạm quên đi được, còn lửa vô thường mà hừng hực thì cần phải đọan trừ tận diệt. Vì muốn đoạn trừ lửa vô thường, nên tu tín lực. Vậy để đoạn trừ những pháp vô thường nào phải tu tín lực ? Đoạn trừ sắc vô thường nên tu tín lực; đoạn trừ thọ, tưởng, hành, thức vô thường nên tu tín lực.” Nói chi tiết như trên,... cho đến:

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy,  hoan hỷ phụng hành. 

Như kinh dạy về vô thường, quá khứ là vô thường, vị lai là vô thường, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai là vô thường; quá khứ, hiện tại là vô thường; vị lai, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai, hiện tại là vô thường, tám kinh cũng dạy như trên như vậy.

Như kinh dạy về tín lực, tám kinh dạy về tinh tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực cũng dạy như trên như vậy.

Như bốn mươi kinh dạy về đoạn trừ, trong mỗi một kinh của bốn mươi kinh dạy về nên hiểu biết, nên nhàm chán, nên dứt trừ, nên dừng nghỉ, nên buông xả, nên diệt tận, nên dứt bặt  cũng dạy như trên như vậy.

KINH 184. NIỆM GIÁC PHẦN [109]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Như có người bị lửa đốt đầu và áo, phải làm sao để cứu?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, phải gấp rút, nhanh chóng, nổ lực tìm cách để dập tắt nó.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:     

“Đầu và áo bị đốt cháy còn có thể tạm quên đi được, còn lửa vô thường mà hừng hực thì cần phải đoạn trừ tận diệt. Vì để đoạn trừ lửa vô thường, nên tu niệm giác phần. Vậy để đoạn trừ những pháp vô thường nào phải tu niệm giác phần? Đoạn trừ sắc vô thường nên tu niệm giác phần, đoạn trừ thọ, tưởng, hành, [47c] thức vô thường nên tu niệm giác phần.” Chi tiết như trên,... cho đến:

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy,  hoan hỷ phụng hành. 

Như kinh dạy về vô thường, quá khứ là vô thường, vị lai là vô thường, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai là vô thường; quá khứ, hiện tại là vô thường; vị lai, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai, hiện tại là vô thường, tám kinh cũng dạy như trên như vậy.

Như tám kinh dạy về niệm giác phần, trong mỗi một kinh của tám kinh dạy về trạch pháp giác phần, tinh tấn giác phần, hỷ giác phần, trừ giác phần, xả giác phần, định giác phần cũng dạy như trên như vậy.

Như năm mươi sáu kinh dạy về nên đoạn trừ, trong mỗi một kinh của năm mươi sáu kinh dạy về nên hiểu biết, nên nhàm chán, nên dứt trừ, nên dừng nghỉ, nên buông xả, nên diệt tận, nên dứt bặt cũng dạy như trên như vậy.

KINH 185. CHÁNH KIẾN [110]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Như có người bị lửa đốt đầu và áo, phải làm sao để cứu?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, phải gấp rút, nhanh chóng, nổ lực tìm cách để dập tắt nó.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:     

“Đầu và áo bị đốt cháy còn có thể tạm quên đi được, còn lửa vô thường mà hừng hực thì cần phải đoạn trừ tận diệt. Vì để đoạn trừ lửa vô thường, nên tu chánh kiến. Vậy để đoạn trừ những thứ lửa vô thường nào phải tu chánh kiến? Đoạn trừ sắc vô thường nên tu chánh kiến; đoạn trừ thọ, tưởng, hành, thức vô thường nên tu chánh kiến.” Chi tiết như trên,... cho đến:

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy,  hoan hỷ phụng hành. 

Như kinh dạy về vô thường, quá khứ là vô thường, vị lai là vô thường, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai là vô thường; quá khứ, hiện tại là vô thường; vị lai, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai, hiện tại là vô thường, tám kinh cũng dạy như trên như vậy.

Như tám kinh dạy về chánh kiến, trong mỗi một kinh của tám kinh dạy về chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định cũng dạy như trên.

Như sáu mươi bốn kinh dạy về nên đoạn trừ, trong mỗi một kinh của sáu mươi bốn kinh dạy về nên hiểu biết, nên nhàm chán, nên dứt trừ, nên dừng nghỉ, nên buông xả, nên diệt tận, nên dứt bặt cũng dạy như trên như vậy.

KINH 186. KHỔ TẬP TẬN ĐẠO [111]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Như có người bị lửa đốt [48a đầu và áo, phải làm sao để cứu?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, phải gấp rút, nhanh chóng, nổ lực tìm cách để dập tắt nó.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:     

“Đầu và áo bị đốt cháy còn có thể tạm quên đi được, còn lửa vô thường mà hừng hực thì cần phải đoạn trừ tận diệt. Vì để đoạn trừ lửa vô thường, nên tu Khổ-Tập-Tận-Đạo. Vậy để đoạn trừ những pháp vô thường nào phải tu Khổ-Tập-Tận-Đạo? Đoạn trừ sắc vô thường nên tu Khổ-Tập-Tận-Đạo, đoạn trừ thọ, tưởng, hành, thức vô thường nên tu Khổ-Tập-Tận-Đạo.” Chi tiết như trên, ... cho đến:

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.

Như kinh dạy về vô thường, quá khứ là vô thường, vị lai là vô thường, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai là vô thường; quá khứ, hiện tại là vô thường; vị lai, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai, hiện tại là vô thường, tám kinh cũng dạy như trên như vậy.

Như tám kinh dạy về Khổ-Tập-Tận-Đạo, trong mỗi một kinh của tám kinh dạy về khổ tận đạo lạc, phi tận đạo lạc tận đạo cũng dạy như trên như vậy.

Như ba mươi hai kinh dạy về nên đoạn trừ, trong mỗi một kinh của ba mươi hai kinh dạy về nên hiểu biết, nên nhàm chán, nên dứt trừ, nên dừng nghỉ, nên buông xả, nên diệt tận, nên dứt bặt cũng dạy như trên như vậy.

KINH 187. VÔ THAM PHÁP CÚ [112]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Như có người bị lửa đốt đầu và áo, phải làm sao để cứu?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Bạch Thế Tôn, phải gấp rút, nhanh chóng, nổ lực tìm cách để dập tắt nó.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:     

“Đầu và áo bị đốt cháy còn có thể tạm quên đi được, còn lửa vô thường mà hừng hực thì cần phải đoạn trừ tận diệt. Vì muốn đoạn trừ lửa vô thường, nên tu pháp cú không tham. [113] Vậy để đoạn trừ những pháp vô thường nào phải tu pháp cú không tham? Đoạn trừ sắc vô thường nên tu pháp cú vô tham, đoạn trừ thọ, tưởng, hành, thức vô thường nên tu pháp cú vô tham.”  Chi tiết như trên,... cho đến:

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy,  hoan hỷ phụng hành. 

Như kinh dạy về vô thường, quá khứ là vô thường, vị lai là vô thường, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai là vô thường; quá khứ, hiện tại là vô thường; vị lai, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai, hiện tại là vô thường, tám kinh cũng dạy như trên như vậy.

Như tám kinh dạy về nên tu pháp cú không tham, trong mỗi một kinh của tám khinh dạy về pháp cú, chánh cú, các cú [48a] không nhuế, không si cũng dạy như trên như vậy.

Như hai mươi bốn kinh dạy về nên đoạn trừ, trong mỗi một kinh của hai mươi bốn kinh dạy về nên hiểu biết, nên nhàm chán, nên dứt trừ, nên dừng nghỉ, nên buông xả, nên diệt tận, nên dứt bặt  cũng dạy như trên như vậy.

KINH 188. CHỈ [114]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Như có người bị lửa đốt đầu và áo, phải làm sao để cứu?”

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

‘Bạch Thế Tôn, phải gấp rút, nhanh chóng, nổ lực tìm cách để dập tắt nó.”

Phật bảo các Tỳ-kheo:     

“Đầu và áo bị đốt cháy còn có thể tạm quên đi được, còn lửa vô thường mà hừng hực thì cần phải đoạn trừ tận diệt. Vì để đoạn trừ lửa vô thường, nên tu chỉ. Vậy để đoạn trừ  những pháp vô thường nào phải tu chỉ? Đoạn trừ sắc vô thường nên tu chỉ, đoạn trừ thọ, tưởng, hành, thức vô thường nên tu chỉ.” Chi tiết như trên,... cho đến:

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy,  hoan hỷ phụng hành. 

Như kinh dạy về vô thường, quá khứ là vô thường, vị lai là vô thường, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai là vô thường; quá khứ, hiện tại là vô thường; vị lai, hiện tại là vô thường; quá khứ, vị lai, hiện tại là vô thường, tám kinh cũng dạy như trên như vậy.

Như tám khinh dạy về tu chỉ, tám kinh dạy về tu quán cũng dạy như trên như vậy.

Như mười sáu kinh dạy về nên đoạn trừ, trong mỗi một kinh của mười sáu kinh dạy về nên hiểu biết, nên nhàm chán, nên dứt trừ, nên dừng nghỉ, nên buông xả, nên diệt tận, nên dứt bặt cũng dạy như trên như vậy.

Những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả chúng chẳng phải ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau, phải biết như thật, và đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Là đa văn Thánh đệ tử phải chánh quán như vậy, thì đối với sắc sẽ sanh ra nhàm chán, đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng sanh ra nhàm chán. Khi đã nhàm chán rồi thì sẽ không thích, vì đã không thích nên giải thoát, giải thoát tri kiến: “Ta, sự sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, vui mừng thực hành theo.

Như kinh dạy về vô thường, cũng vậy đối với dao động, chuyển xoay, ốm yếu, bệnh hoạn, phá hoại, bệnh dật dờ, hủ bại, nguy đốn, không thường, không an, biến đổi, khổ não, tai hoạn, ma tà, ma thế, ma khí, như bọt, như bong bóng, như cây chuối, như huyễn; yếu kém tham đắm, đánh giết, [48c] đao kiếm, ganh ghét, tàn sát nhau, tổn giảm, hao suy, trói buộc, đánh đập, ghẻ chóc, ung nhọt, gai nhọn, phiền não, trách phạt, che dấu lỗi lầm, buồn rầu, lo lắng, ác tri thức; khổ, không, chẳng phải ngã, chẳng phải những gì thuộc về ngã, oan gia vây bủa, chẳng phải nghĩa, chẳng phải an ủi, nhiệt não, không bóng mát, không chỗ ở, không che dấu, không nương tựa, không bảo vệ; pháp sanh, pháp già, pháp bệnh, pháp chết, pháp ưu bi, pháp khổ não, pháp không sức, pháp yếu kém, pháp không thể muốn, pháp dụ dẫn, pháp nuôi dưỡng, có pháp khổ, có pháp giết, có pháp, có pháp não, có pháp nhiệt, có pháp tướng, có pháp thổi, có pháp giữ, có pháp thâm hiểm, pháp khó khăn, pháp bất chánh, pháp hung bạo, có pháp tham, có pháp nhuế (sân), có pháp si, pháp không trụ, pháp đốt cháy, pháp chướng ngại, pháp tai ương, pháp tập hợp, pháp tiêu diệt, pháp đống xương, pháp cục thịt, pháp cầm đuốc, pháp hầm lửa, như rắn độc, như mộng, như vay mượn, như trái cây, như kẻ mổ bò (đồ tể), như kẻ giết người, như sương dính, như nước sâu, như dòng chảy siết, như sợi dệt, như bánh xe đạp nước, như nhảy nhót, như bình độc, như thân độc, như hoa độc, như trái độc, phiền não xung động, cũng như vậy.

Này các Tỳ-kheo, cho đến việc đoạn trừ quá khứ, vị lai, hiện tại là vô thường, cần phải tu chỉ-quán. Vậy muốn đoạn trừ những pháp nào trong quá khứ, vị lai, hiện tại là vô thường cho đến (các kinh khác nhau trong liệt kê trên) dứt bặt, cần phải tu chỉ-quán? Vì muốn đoạn trừ sắc quá khứ, vị lai, hiện tại là vô thường, cho đến dứt bặt nên tu chỉ-quán. Đối vơi thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Cho nên những gì thuộc về sắc, hoặc quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả chúng chẳng phải là ngã, chẳng phải khác ngã, chẳng ở trong nhau phải biết như thật. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.

Đa văn Thánh đệ tử phải quán như vậy, đối với sắc sẽ sanh ra nhàm chán; đối với thọ, tưởng, hành, thức sanh ra nhàm chán. Vì đã nhàm chán nên sẽ không thích,do không thích nên được giải thoát, giải thoát tri kiến: tự biết “Ta, sự sanh đã chấm dứt, phạm hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn tái sanh đời sau nữa.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, vui mừng thực hành theo. 

KINH 189. THAM DỤC [115]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp-cô-độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Vì thành tựu một pháp, nên không thể nhận biết sắc là vô thường; biết thọ, tưởng, hành, thức là vô thường. Một pháp được thành tựu là pháp nào? Tham dục, một pháp được thành tựu, nên không có thể nhận biết sắc là vô thường; biết thọ, tưởng, hành, thức là vô thường.

 [49a] “Thành tựu một pháp gì? [116] Đó là thành tựu pháp không tham dục. Thành pháp không tham dục, có thể nhận biết sắc là vô thường; biết thọ, tưởng, hành, thức là vô thường.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy,  hoan hỷ phụng hành. 

Như thành tựu không thành tựu, đối với biết không biết, thân cận không thân cận, sáng không sáng, hiểu không hiểu, quan sát không quan sát, suy lường không suy lường, che dấu không che dấu, gieo trồng không gieo trồng, đè nén không đè nén, che mờ không che mờ lại cũng như vậy. Biết đã như vậy, hiểu rõ đã như vậy, thì khả năng, mong cầu, biện biệt, tiếp xúc, nhận thật lại cũng như vậy.

Như tham, đối với nhuế, si, sân, hận, mắng chưởi, chấp chặt, ganh ghét, keo kiệt, lừa dối cũng như vậy. Không hổ, không thẹn, mạn, mạn mạn, tăng mạn, ngã mạn, tăng thượng mạn, tà mạn, ty mạn, kiêu mạn, buông lung, kiêu căng, cống cao, quanh co, hình thức dối trá, dụ lợi, ác lợi, muốn nhiều, muốn thường xuyên, muốn không cung kính, miệng ác, tri thức ác, không nhẫn, tham đắm, không tham, ác tham; thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới thủ, dục ái, sân nhuế, thùy miên, trạo hối, nghi, hôn túy, quanh quẹo, nổ lực, lười biếng, loạn tưởng, nhớ nghĩ không đúng, thân bẩn, không ngay thẳng, không dịu dàng, không khác; biết ham muốn, biết sân si, biết tai hại, biết thân thuộc, biết bờ cõi, biết nhẹ dễ, biết yêu nhà người, cùng với sầu ưu, não khổ. Đối với những thứ này tất cả đều bị che mờ, cho đến bị che mờ mà không có năng lực diệt sạch sắc để tác chứng. Pháp ấy là pháp nào? Là pháp khổ não, vì khổ não che mờ nên không có năng lực diệt tận sắc để tác chứng, không có năng lực diệt tận thọ, tưởng, hành, thức để tác chứng. Có một pháp không che mờ, nên có khả năng diệt tận sắc để tác chứng, và có khả năng diệt tận thọ, tưởng, hành, thức để tác chúng. Pháp ấy là pháp nào? Là pháp khổ não, vì pháp này không che mờ nên có khả năng diệt tận sắc để tác chứng, và cũng có khả năng diệt tận thọ, tưởng, hành, thức để tác chứng.

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, vui mừng thực hành theo. [117]

 


 [1] Ấn Thuận xếp vào Tụng 7, “35. Tương ưng kiến,” tổng thể có 93 kinh, trong đây chỉ có 6 kinh có nội dung. Tương đương Pāli, S. 24. Diṭṭhisamyuttam, Roman iii. 201 tt.

 [2] Đại chánh, kinh 133. Pāli, S. 24. 2. Etaṃ mamaṃ (cái này là của tôi).

 [3] Pāli (S. iii. 203): kismiṃ nu kho bhikkhave sati kiṃ upādāya kiṃ abhinivissa evaṃ diṭṭhi uajjati: etaṃ mama eso’ham asmi eso me attā ti, Do cái gì đang hiện hữu, do chấp thủ cái gì, do tham luyến cái gì, mà khởi lên quan điểm này: “Cái này là của tôi, tôi là cái này, cái này là tự ngã của tôi”?

 [4] Kiến văn giác thức cầu đắc tùy ức 見聞覺識求得隨憶. Pāli: diṭṭhaṃ sutam mutaṃ viññātaṃ pattaṃ anuvicaritaṃ, cái được thấy, cái được nghe, cái được cảm nhận, cái được nhận thức, cái sở đắc, cái sở cầu, cái được nhớ nghĩ.

 [5] Lục kiến xứ 六見處, sáu căn cứ để chấp ngã.

 [6] Đại chánh, kinh 134.

 [7] Đại chánh, kinh 135.

 [8] Đại chánh, kinh 136

 [9] Xem cht. 3 kinh 135.

 [10] Xem cht. 4 kinh 135.

 [11] Đại chánh, kinh 137.

 [12] Đại chánh, kinh 138.

 [13] Bản Hán, hết quyển 6.

 [14] Bản  Hán, Đại chánh, quyển 7, kinh 139.

 [15] Trong bản Hán: khởi cầu 起求, kinh 135: cầu đắc; Pāli: pattam pariyesitam.

 [16] Phi thử thế ngã, phi thử thế ngã sở ; xem kinh 135: phi thử ngã, phi thử ngã sở.

 [17] Nguyên trong bản Hán: tam-bồ đề.

 [18] Đại chánh, kinh 140.

 [19] Đại chánh, kinh 141.

 [20] Đại chánh, kinh 142. Pāli, S. 22. 150. Etaṃ mam; 24. 2. Etaṃ mama.

 [21] Pāli: ahaṃkāra-mamāṃra-mānānusaya, ngã, ngã sở, mạn tùy miên.

 [22] Đại chánh, kinh 143, 144.

 [23] Đại chánh, kinh 145.

 [24] Đại chánh, kinh 146. Pāli, S. 22. 149. Ajjhattikṃ; 35. 105. Upādāya.

 [25] Đại chánh, kinh 147.

 [26] Đại chánh, kinh 148.

 [27] Tám thế pháp: đắc, thất, vinh, nhục, khen, chê, khổ, lạc.

 [28] Đại chánh, kinh 149. Pāli, S. 35. 108.Seyyo.

 [29] Pāli, thành cú: seyyo’ham asmī ti vā hoti, sadiso’ham asmī ti vā hoti, hīno’ham asmī ti vā hoti.

 [30] Đại chánh, kinh 150.

 [31] Đại chánh, kinh 151.

 [32] Đại chánh, kinh 152. Pāli, S. 22. 152. Sottā; 24. 3. So attā.

 [33] Pāli (S. iii. 181), thành cú: so attā, so loko, so pecca bhavissāmi nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo ti, “cái này là ta, cái này là thế giới, tôi sẽ là cái này sau khi chết, thường hằng, kiên cố, vĩnh cửu, là pháp không biến chuyển.”

 [34] Đại chánh, kinh 153

 [35] Hán: bỉ 彼; đây chỉ Đại Phạm thiên; theo triết học Veda-Upanishad, Ta và Brahman là một.

 [36] Đại chánh, kinh 154. Pāli, S. 24. 5. Natthi (phần đầu).

 [37] Tức không có kết quả phước báo của sự bố thí. Pāli:  natthi dinnaṃ.

 [38] Hán: hội 會, chỉ đại hội tế lễ, tế đàn không mang lại phước báo. Pāli: yiṭṭham.

 [39] Hán: thuyết 說. Pāli: hutaṃ, vật cúng thần, con vật hy sinh; cũng chỉ lễ hiến tế hy sinh. Hán dịch là thuyết, tức chú thuyết, chỉ lời cầu đảo trong khi hiến tế.

 [40] Nguyên Hán: chánh đáo chánh thú 正到正趣, chỉ các Thánh giả hữu học, hoặc chung những người tu hành chân chánh. Pāli: na’tthi loke samaṇabrāmanā sammaggata sammāpaṭipannā ye imañ ca lokaṃ parañ ca lokaṃ sayaṃ abhiññā saccahikatvā pavedenti, trong đời này không có sa-môn hay bà-la-môn nào là những vị chánh hành, chánh hướng mà tự thân chứng nghiệm thế giới này hay thế thế giới khác.

 [41] Chủ trương tà kiến, không tin nhân quả. Một phần trong thuyết hư vô của Ajito Kesakambalī, một trong Lục sư ngoại đạo. Phần sau, nói ở kinh 158. Xem D. 2. Sāmaññ-phala-sutta.

 [42] Đại chánh, kinh 155. Pāli, S. 24. 7. Hetu .

 [43] Một phần trong chủ trương của Makkhali-Gosālo, một trong Lục sư ngoại đạo; xem D. 2. Sāmañña-phala-sutta: (…) sabbe sattā (…) avasā abalā avīriyā niyati-saṅgati-bhāva-pariṇatā chass’evābhijātisu sukha-dukkha paṭisaṃvedenti, tất cả chúng sanh… không tự chủ, bất lực, không có nõ lực, bị chi phối bởi định mệnh, chuyển biến theo bản tánh, để mà thọ khổ hay lạc trong sáu chủng loại.

 [44] Sau khi chết không còn gì. Đại chánh, kinh 156. Pāli, S. 24. 5. Natthi (phần sau).

 [45] Phần sau trong chủ trương đoạn diệt của Aita Kesa-kambali; phần đầu nói trong kinh trên.

 [46] Tham chiếu Pāli: (…) bhassantāhutiyo; dattupaññattaṃ yad idaṃ danaṃ, tesaṃ tucchaṃ musā vilāpo ye keci atthikavādaṃ vadanti, “(…) vật cúng thành tro; bố thí là chuyện bày đăt của người ngu; nói sau khi chết còn tồn tại là dối trá.”

 [47] Đại chánh, kinh 157.  Pāli, S. 24. 7. Hetu.

 [48] Phần đầu chủ trương của Makkhali-Gosāla, xem D. 2. Sāmañña-phala-sutta: na’tthi hetu n’atthi paccayo sattānaṃ saṃkilesāya, không có nhân, không có duyên cho sự nhiễm ô của chúng sanh.

 [49] Đại chánh, kinh 158. Pāli, S. 24. 5. Hetu.

 [50] Tiếp theo chủ trương của Makkhali-Gosāla, xem D. 2. Sāmañña-phala-sutta: na’tthi hetu n’atthi paccayo sattānaṃ visuddhiyā, không có nhân, không có duyên cho sự thanh tịnh của chúng sanh.

 [51] Đại chánh, kinh 159. Pāli, S. 24. 7. Hetu.

 [52] Theo đoạn mạch, phần này tiếp theo thuyết vô nhân, nhưng không có Pāli tương đương.

 [53] Đại chánh, kinh 160.

 [54] Ấn Thuận Hội biên: văn nghĩa bất túc, đề ngị thêm: “Chúng sanh tri kiến, không nhân, không duyên.”

 [55] Đại chánh, kinh 161. Pāli, S. 24. 8. Mahādiṭṭhi; tham chiếu D.2. Sāmañña-phala-sutta.

 [56] Chủ trương của Pakudha Kaccāyana. Xem D. 2

 [57] Đại chánh, kinh 162. Pāli, 24. 6. Karoto.

 [58] Chủ trương của Pūraṇa Kassapa, xem D. 2. Sāmañña-phala-sutta.

 [59] Đại chánh, kinh 163. Pāli, S. 24. 8. Mahādiṭṭhi.

 [60] 14 x 100 x 1.000 + 1.400.000 sanh môn, cửa thọ sanh hay sanh loại. Pāli: yoni-pamukkha, cửa thọ sanh hàng đầu, hàng ưu sinh.

 [61] Câu này, trong bản Hán, vì được dịch sát theo tiếng Phạn, nên cần chấm câu lại để dịch cho đúng. Cf. S. iii. 321: imāni yonipamukkhasatasahassāni saṭṭthiñ ca satāni cha ca satāni: có 1400 000 sanh môn tối thượng, và 6000 và sáu trăm (sanh môn khác nữa).

 [62] Pāli ibid.: pañca ca kammuno satāni pañca ca kammāni, có 500 loại nghiệp, và có 5 nghiệp…

 [63] Pāli inid.: dvaṭṭhi paṭipadā, có 62 đường lối hành đạo.

 [64] Nguyên Hán: nội kiếp; vì antara có nghĩa nội, vừa có nghĩa trung gian. Pāli: antarakappa: kiếp trung gian, trung kiếp.

 [65] Nê-lê 泥黎, tức địa ngục. Pāli: tiṃse niriyasate, 3 000 địa ngục.

 [66] Pāli: vise indriyasate, 2 000 căn.

 [67] Nguyên Hán: tham giới貪界; đọc nhầm rajas (vi trần) với rāga (tham). Pāli: chattiṃsa rajodhātuyo, 36 trần giới (cõi vi trần).

 [68] Pāli: ekūnapaññāsa paribbājakasate, 4900 du sĩ  (xuất gia) ngoại đạo.

 [69] Pāli: satta saññīgabbhā satta asaññīgabbhā, 7 tưởng thai và 7 vô tưởng thai. Trong bản Hán, đọc là (a)saññī-kappā.

 [70] Tì-xá-giá 毘舍遮. Pāli: pesaca; quỷ tì-xá-xà.

 [71] Pāli: satta sarā, 7 hồ nước lớn.

 [72] Giác覺; không rõ chỉ cái gì. Có lẽ tương đương Pāli: satta pavuṭā (=pavudhā), bảy rừng nhỏ; mà Hán đọc là pabuddha?

 [73] Pāli: chābhijātiyo, sáu sanh loại ưu thắng, chỉ sáu giai cấp.

 [74] Thập tăng tiên十增進; không rõ chỉ cái gì.

 [75] Pāli: aṭṭhapurisabhūmiyo, tám tầng lớp (bậc) con người. Sớ giải: manda (ngu độn), khiḍḍā (du hý), vīmaṃsaka (thẩm sát), ujugata (chánh hành), sekha (hữu học), samaṇa (sa-môn), jānana (thức tri), panna (đọa lạc).

 [76] Pāli:sandhāvitvā saṃsaritvā dukkhass’ antaṃ karissanti, lưu chuyển luân hồi (qua tất cả thời gian và chủng loại kể trên, cuối cùng mới) sẽ cứu cánh khổ biên, hoàn toàn chấm dứt khổ.

 [77]. Trên đây là một phần trong thuyết “Luân hồi tịnh hóa” (Pāli: saṃsārasuddhiṃ) của Makkhali-Gosala. Tham chiếu D. 2. Sāmañña-phala-sutta.

 [78] Đại chánh, kinh 164. Pāli, S. 24. 1 Vātā.

 [79] Pāli (S. iii. 201): na candimasūriyā udenti vā apenti vā esikaṭṭhayiṭṭhitā ti, mặt trăng và mặt trời không mọc hay lặn, mà đứng một chỗ như trụ đá.

 [80] Đại chánh, kinh 165.

 [81] Đại chánh, kinh 166. Pāli, S. 24.. 37-44. Rūpī attā, v.v…

 [82] Pāli (S. iii. 218): rūpī attā hoti arogo paraṃ maraṇā ti, tự ngã có sắc, sau khi chết không bịnh.

 [83] S. ibid.: arūpī attā hoti arogo paraṃ maraṇā, tự ngã không có sắc (vô hình), không bệnh sau khi chết.

 [84] Hữu biên: có giới hạn.

 [85] Cf. S ibid.: ekantasukhī attā hoti arogo paraṃ maraṇā, tự ngã nhất hướng lạc, không bệnh sau khi chết

 [86] Đại chánh, kinh 167.

 [87]  Xem kinh 167.

 [88] Đại chánh, kinh 168. Pāli, S. 24. 9-18. Sassato loko etc.

 [89] Đoạn này tương đương Pāli, S. 24. 9-10. Sassato loko vv.

 [90] Đoạn này tương đương Pāli, S. 24. 11-12. Antavā vv.

 [91] Pāli, S. 23. 13-14: taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ.

 [92] Pāli, S. 24. 15-18: hoti tathāgato v.v.

 [93] Đại chánh, kinh 169.

 [94] Đại chánh, kinh 170.

 [95] Đại chánh, kinh 171.

 [96] Đại chánh, kinh 172. Ấn Thuận Hội biên, 36. Tương ưng doạn tri, Tụng 7, từ Đại chánh kinh 172-187. Các kinh này không có tương đương Pāli. Bản Việt không tachs riêng thành một Tương ưng như Hội biên, mà vẫn giữ trong Tương ưng Kiến, gồm các phẩm v - vii.

 [97] Đại chánh, kinh 173.

 [98] Đại chánh, kinh 174.

 [99] Thí dụ chữa lửa đang cháy trên đầu. Đại chánh, kinh 175.

 [100] Xem cuối kinh 176.

 [101] An trụ nơi thân quán. Đại chánh, kinh 176.

 [102] Tức tu tập bốn niệm xứ.

 [103] An trụ với sự quán thân. Đại chánh, kinh 177.

 [104]                 Đại chánh, kinh 178.

 [105] Đại chánh, kinh 179.

 [106] Bốn như ý túc hay bốn thần túc.

 [107] Đại chánh, kinh 180.

 [108] Đại chánh, kinh 181.

 [109] Tức niệm giác chi, trong 7 giác chi. Đại chánh, kinh

 [110] Đại chánh, kinh 183.

 [111] Đại chánh, kinh 184.

 [112] Đại chánh, kinh 185.

 [113] Vô tham phá cú 無貪法句. Bốn pháp cú, hay bốn pháp tích 四法跡, xem Tập dị 6 (tr. 395a10). Xem D. 33:  cattāri dhammapadāni: anabhijjhā, avyāpādo, sammāsati, sammāsamādhi dhammapdaṃ, vô tham pháp tích, vô sân pháp tích, chánh niệm pháp tích, chánh định pháp tích.

 [114]                 Đại chánh, kinh 186.

 [115] . Đại chánh. kinh 187.

 [116] . Để có khả năng nhận biết sắc, v.v… là vô thường.

 [117] Bản Hán, hết quyển 7.